Đây là nội dung trọng tâm trong kết luận của Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trần Hồng Minh tại cuộc họp kiểm điểm tình hình triển khai dự án đường sắt tốc độ cao trục Bắc - Nam và dự án tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng.
Theo chỉ đạo, Vụ Kế hoạch - Tài chính được giao khẩn trương hoàn thành báo cáo của Bộ Xây dựng về cơ chế đặc thù, phương thức đầu tư và bộ tiêu chí lựa chọn nhà đầu tư đối với dự án đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam. Đây được xem là “nút mở” quan trọng để đi đến quyết định tối ưu về cách làm, cách chọn đối tác, đồng thời tạo nền tảng pháp lý - kỹ thuật - tài chính cho toàn bộ chuỗi triển khai sau đó.
Song song, Cục Kinh tế - Quản lý đầu tư xây dựng chủ trì phối hợp cùng chủ đầu tư xây dựng tiến độ chi tiết các công việc để bảo đảm mốc khởi công cuối năm 2026.
Điểm được nhấn mạnh là vận dụng các cơ chế đặc thù nhằm sớm lựa chọn tư vấn lập Báo cáo nghiên cứu khả thi - tài liệu cốt lõi quyết định công nghệ, quy mô, phương án thiết kế, tổng mức đầu tư, hiệu quả kinh tế - xã hội và lộ trình thực hiện.
Bộ trưởng cũng yêu cầu các đơn vị liên quan tham mưu thành lập các Ban Chỉ đạo của Bộ để triển khai các dự án đường sắt quốc gia, qua đó thống nhất đầu mối điều phối, tăng tốc xử lý liên ngành và hạn chế “độ trễ” trong phối hợp.
Tại cuộc họp của Thường trực Chính phủ về tình hình triển khai các dự án đường sắt trọng điểm, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh dự án đường sắt tốc độ cao trục Bắc-Nam là dự án được lãnh đạo cấp cao đặc biệt quan tâm, nhân dân kỳ vọng.
Từ quan điểm này, Thủ tướng yêu cầu Bộ Khoa học và Công nghệ cùng Bộ Xây dựng rà soát lại hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn trên cơ sở kinh nghiệm quốc tế và điều kiện Việt Nam, nhằm lựa chọn công nghệ xây dựng đáp ứng đồng thời các yêu cầu kỹ thuật, kinh tế, chính trị - đối ngoại, an ninh quốc phòng, khả năng chuyển giao công nghệ và vận hành lâu dài.
Trên nền rà soát đó, nhiệm vụ tiếp theo là đề ra bộ tiêu chuẩn - tiêu chí - quy định để lựa chọn phương thức đầu tư phù hợp nhất, tối ưu nhất cho đất nước. Yêu cầu đặt ra là công khai, minh bạch, bảo đảm tính khả thi, hài hòa lợi ích giữa các chủ thể tham gia và phòng ngừa nguy cơ tiêu cực, tham nhũng, lợi ích nhóm. Đây là “hàng rào” quan trọng, bởi đường sắt tốc độ cao là dự án quy mô rất lớn, thời gian thực hiện dài, liên quan đồng thời tới công nghệ, tài chính, năng lực quản trị, vận hành, khai thác và an toàn hệ thống.
Một mốc tiến độ cụ thể được Thủ tướng giao là trong tháng 1/2026, Bộ Xây dựng phối hợp các bộ, ngành liên quan hoàn thành đánh giá tác động của các phương thức đầu tư; đề xuất cơ chế, chính sách cho từng phương thức để trình Chính phủ.
Bộ cần khẩn trương hoàn thành lựa chọn tư vấn khảo sát; hướng dẫn các địa phương triển khai ngay các dự án giải phóng mặt bằng; đồng thời tiếp tục hoàn thiện bộ tiêu chuẩn, quy chuẩn công nghệ.
Về công tác chuẩn bị tại địa phương, Bộ Xây dựng cho biết 11/15 địa phương đã rà soát nhu cầu, xác định khu tái định cư phục vụ dự án đường sắt tốc độ cao trục Bắc-Nam. Tập đoàn Điện lực Việt Nam cũng đã rà soát, kiểm đếm và lập phương án di dời các công trình điện liên quan.
Đến nay, 12/15 địa phương đã có báo cáo nhu cầu đăng ký vốn ngân sách Trung ương một bước quan trọng để hình thành bức tranh tổng thể về nguồn lực và phân kỳ đầu tư.
Ở mảng chuẩn bị hồ sơ dự án, công tác lập Báo cáo nghiên cứu khả thi đang được thúc đẩy theo hướng bám sát mốc thời gian. Theo thông tin cập nhật, việc thương thảo hợp đồng nhằm ký trong tháng 12/2025. Các gói thầu tư vấn khác đã phê duyệt nhiệm vụ, dự toán; triển khai đánh giá tác động môi trường; thực hiện thủ tục lựa chọn nhà thầu, bảo đảm phù hợp tiến độ lập Báo cáo nghiên cứu khả thi.
Về tiêu chuẩn kỹ thuật, Bộ Khoa học và Công nghệ đã thẩm định công bố 37 tiêu chuẩn về đường sắt tốc độ cao được xác định là các tiêu chuẩn chung mang tính phổ quát. Tuy nhiên, công nghệ cụ thể và quy mô đầu tư sẽ được “chốt” trong quá trình lập Báo cáo nghiên cứu khả thi, làm cơ sở cho các cấp có thẩm quyền xem xét quyết định.
Một số nhà đầu tư đề xuất tuyến đường sắt tốc độ cao trục Bắc-Nam theo hình thức đầu tư kinh doanh, nhưng cần có các cơ chế đặc thù, đặc biệt và đánh giá kỹ về tác động.



