Chênh lệch lớn về quy mô kinh tế giữa các tỉnh, thành

VOH - Theo số liệu mới nhất, sự phân hóa về quy mô tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) giữa các địa phương trên cả nước vẫn rất rõ rệt.

Trong đó, có 8 tỉnh, thành phố nằm trong nhóm dẫn đầu với quy mô GRDP trên 300.000 tỉ đồng, trong khi 28 địa phương có GRDP dưới 100.000 tỉ đồng.

Các địa phương có quy mô kinh tế lớn nhất nước tiếp tục là TPHCM và Hà Nội. Năm nay, GRDP của TPHCM đạt 1,78 triệu tỉ đồng, trong khi Hà Nội xếp thứ hai với 1,43 triệu tỉ đồng. Đây vẫn là hai đầu tàu kinh tế của cả nước, chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng quy mô nền kinh tế Việt Nam.

Cùng trong nhóm dẫn đầu còn có các tỉnh, thành phố công nghiệp và cảng biển quan trọng như Bình Dương, Đồng Nai, Hải Phòng, Bà Rịa - Vũng Tàu, Quảng Ninh và Thanh Hóa. Trong đó, Hải Phòng có GRDP đạt 445.995 tỉ đồng, đứng thứ năm cả nước.

Ở khu vực phía Nam, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu tiếp tục duy trì đà phát triển nhờ hệ thống khu công nghiệp, sản xuất công nghiệp và năng lượng. Mỗi tỉnh này đều có quy mô GRDP vượt 400.000 tỉ đồng.

GRDp

Một điểm đáng chú ý là Thanh Hóa vẫn giữ vững vị trí thứ 8 trên bảng xếp hạng, đồng thời lần đầu tiên vượt mốc 318.752 tỉ đồng GRDP. Điều này giúp Thanh Hóa trở thành địa phương có nền kinh tế lớn nhất khu vực Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ.

Bên cạnh nhóm đầu, phần lớn các tỉnh, thành phố còn lại có quy mô GRDP dưới 300.000 tỉ đồng. Trong số đó, chỉ có 4 tỉnh đạt trên 200.000 tỉ đồng, gồm Bắc Ninh (232.000 tỉ đồng), Nghệ An (216.943 tỉ đồng), Hải Dương (212.386 tỉ đồng) và Bắc Giang (207.000 tỉ đồng).

Nhóm địa phương có quy mô GRDP từ 100.000 - 200.000 tỉ đồng có tới 22 tỉnh, trong đó có hai thành phố trực thuộc trung ương là Đà Nẵng và Cần Thơ. Những tỉnh này phân bố đều khắp các vùng miền, nhưng tập trung nhiều nhất ở khu vực Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long.

Đáng chú ý, 28 tỉnh có quy mô GRDP dưới 100.000 tỉ đồng, chủ yếu thuộc Trung du và miền núi phía Bắc, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Tổng GRDP của cả nhóm này cộng lại chỉ tương đương với quy mô kinh tế của TPHCM.

Trong nhóm này, 8 tỉnh có GRDP thấp nhất dưới 50.000 tỉ đồng, gồm Lạng Sơn (49.736 tỉ đồng), Yên Bái (48.662 tỉ đồng), Kon Tum (40.946 tỉ đồng), Hà Giang (35.822 tỉ đồng), Điện Biên (31.663 tỉ đồng), Lai Châu (31.024 tỉ đồng), Cao Bằng (25.204 tỉ đồng) và Bắc Kạn (18.744 tỉ đồng).

Khoảng cách giữa tỉnh có GRDP cao nhất (TPHCM) và thấp nhất (Bắc Kạn) lên tới gần 100 lần, phản ánh sự chênh lệch đáng kể trong phát triển kinh tế giữa các vùng miền.

Xét về tốc độ tăng trưởng GRDP, Bắc Giang tiếp tục giữ vị trí số một với mức tăng 13,85%. Tiếp theo là Thanh Hóa (12,16%), Bà Rịa - Vũng Tàu (11,72%), Hải Phòng (11,01%) và Hà Nam (10,93%). Đây là những địa phương có mức tăng trưởng ấn tượng, nhờ sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp, dịch vụ và cảng biển.

Ngược lại, một số địa phương có mức tăng trưởng thấp nhất bao gồm Gia Lai (3,28%), Lâm Đồng (4,02%), Quảng Ngãi (4,07%), Đắk Nông (4,87%) và Đắk Lắk (5,08%).

Dù có quy mô kinh tế lớn nhất cả nước, nhưng TPHCM không phải địa phương có GRDP bình quân đầu người cao nhất. Vị trí này thuộc về Bà Rịa - Vũng Tàu với hơn 9.000 USD/người. Tiếp theo là Hải Phòng với 8.665 USD/người, vượt xa mức bình quân cả nước.

TPHCM đứng thứ ba với 7.600 USD/người, trong khi Hà Nội đạt 6.406 USD/người. Một số thành phố lớn khác như Đà Nẵng (4.719 USD/người) và Cần Thơ (4.162 USD/người) cũng có mức thu nhập cao hơn đáng kể so với nhiều tỉnh, thành khác.

Trong khi đó, các địa phương có GRDP bình quân đầu người thấp nhất chủ yếu nằm ở miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Hà Giang có mức thấp nhất với 1.540 USD/người, tiếp theo là Yên Bái (2.206 USD/người), Bắc Kạn (2.233 USD/người) và Sơn La (2.257 USD/người).

Theo cơ quan thống kê, quy mô GDP của Việt Nam trong năm 2024 ước đạt 11.511,9 nghìn tỉ đồng, tương đương 476,3 tỉ USD. GDP bình quân đầu người đạt 4.700 USD, tăng 377 USD so với năm trước.

Sự chênh lệch giữa các tỉnh, thành trong quy mô kinh tế và mức thu nhập bình quân đầu người tiếp tục phản ánh sự phát triển không đồng đều giữa các vùng miền. Điều này đặt ra yêu cầu về việc có chính sách hỗ trợ phù hợp để thu hẹp khoảng cách và tạo điều kiện cho các địa phương có xuất phát điểm thấp có cơ hội tăng trưởng bền vững hơn.

 

Bình luận