Dân số Việt Nam dự kiến đạt đỉnh năm 2059, cơ cấu “vàng” khép lại vào 2036

Kết quả dự báo cho thấy dân số Việt Nam tiếp tục tăng trong các thập kỷ tới nhưng tốc độ tăng có xu hướng giảm dần và dự kiến đạt đỉnh vào khoảng năm 2059.

Ngày 23/12, Cục Thống kê phối hợp Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) tổ chức hội thảo công bố các kết quả nghiên cứu chuyên sâu xây dựng từ dữ liệu Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ, cùng Điều tra, thu thập thông tin về thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số.

Tại đây, ba báo cáo nổi bật được giới thiệu, cung cấp hệ bằng chứng quan trọng phục vụ hoạch định chính sách phát triển vùng, đô thị, thị trường lao động, phân bố dân cư và an sinh xã hội.

Phát biểu khai mạc, lãnh đạo Cục Thống kê nhấn mạnh các kết quả nghiên cứu cho thấy vai trò ngày càng rõ của dữ liệu thống kê và bằng chứng khoa học trong xây dựng chính sách dân số, lao động, an sinh và phát triển bền vững.

Hội thảo cũng là diễn đàn để cơ quan quản lý, chuyên gia và các đối tác phát triển thảo luận hàm ý chính sách, thúc đẩy khai thác, sử dụng hiệu quả dữ liệu điều tra trong quản trị quốc gia.

Báo cáo “Dự báo dân số Việt Nam giai đoạn 2024-2074” phác họa bức tranh nửa thế kỷ tới về quy mô, cơ cấu dân số theo tuổi và giới, cũng như xu thế phân bố dân cư.

Kết quả dự báo cho thấy dân số Việt Nam vẫn tiếp tục tăng trong các thập kỷ tới, song tốc độ tăng giảm dần và dự kiến đạt đỉnh vào khoảng năm 2059 theo phương án trung bình, trước khi chuyển sang giai đoạn tăng chậm hoặc ổn định.

Trong ba kịch bản mức sinh, dân số giai đoạn 2024-2074 tăng thêm 2,5% ở kịch bản mức sinh thấp (1,45 con/phụ nữ), tăng 12,7% ở mức sinh trung bình (1,85 con/phụ nữ) và tăng 17% ở mức sinh cao (2,01 con/phụ nữ). Đến năm 2074, quy mô dân số có thể đạt lần lượt 103,9 triệu; 114,2 triệu và 118,5 triệu người tùy kịch bản.

Một cảnh báo đáng chú ý là thời kỳ cơ cấu dân số vàng khi cứ hai người trong độ tuổi lao động “gánh” một người phụ thuộc sẽ khép lại vào năm 2036. Sau mốc này, Việt Nam bước nhanh sang giai đoạn dân số già và siêu già, thể hiện ở sự thu hẹp của các nhóm tuổi trẻ và trung niên, trong khi nhóm cao tuổi tăng mạnh.

Đồng thời, tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh được dự báo còn kéo dài tới giữa thế kỷ 21, tiếp tục tạo ra các hệ lụy về cấu trúc giới tính và quan hệ xã hội.

1311-dan-toc-thieu-so
Đồng bào dân tộc thiểu số được dùng nước sạch - Ảnh: TTXVN

Báo cáo cũng chỉ ra quá trình đô thị hóa vẫn diễn ra nhưng có xu hướng chậm lại khi tỷ lệ dân số thành thị tiệm cận ngưỡng 50%. Di cư nội địa tiếp tục là nhân tố quan trọng làm thay đổi phân bố dân cư giữa các vùng, phản ánh khác biệt về phát triển kinh tế - xã hội, năng lực thu hút và sử dụng lao động của từng địa phương.

Trên cơ sở đó, nhóm nghiên cứu đề xuất ưu tiên chính sách nhằm tận dụng tốt “cửa sổ dân số vàng” còn lại, đồng thời chuẩn bị hệ thống an sinh, y tế, thị trường lao động để thích ứng với già hóa dân số và xử lý các hệ lụy từ mất cân bằng giới tính khi sinh.

Báo cáo thứ hai, “Di cư nội địa Việt Nam giai đoạn 2009-2024”, cho thấy quy mô di cư có xu hướng giảm trong giai đoạn gần đây: từ khoảng 6,4 triệu người giai đoạn 2014-2019 xuống còn khoảng 3,8 triệu người giai đoạn 2019-2024.

Di cư thành thị - thành thị chiếm trên 70%, cho thấy dòng dịch chuyển chủ đạo là giữa các đô thị. Xu hướng di chuyển khoảng cách ngắn ngày càng rõ, phản ánh nhu cầu ổn định nơi cư trú và giảm chi phí của người di cư.

Số người di cư là đồng bào dân tộc thiểu số chỉ giảm nhẹ, khiến tỷ trọng nhóm này tăng lên. Điều này gợi mở việc chính sách phát triển nông thôn, ven đô và đô thị vệ tinh bước đầu tạo thêm việc làm tại chỗ, nhưng vẫn cần các giải pháp linh hoạt hơn: mở rộng cơ hội việc làm và dịch vụ xã hội tại địa phương, hỗ trợ di cư ngắn hạn - liên vùng và bảo đảm người di cư tiếp cận bình đẳng các dịch vụ cơ bản.

Báo cáo thứ ba tập trung vào “Những khác biệt về đặc trưng kinh tế - xã hội và nghèo đa chiều trẻ em trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam”. Kết quả phân tích cho thấy mức độ thiếu hụt điều kiện sống và dịch vụ cơ bản khác nhau rõ rệt giữa các nhóm dân tộc và theo vùng địa lý.

Tỷ lệ không biết chữ ở các dân tộc thiểu số nói chung là 15,1% nhưng ở nhóm dân tộc rất ít người (dưới 10.000 người) lên tới 32,8%, cao hơn nhiều so với nhóm dân tộc có quy mô lớn hơn (13,3%). Các nguyên nhân thường chồng lấp, từ hạ tầng hạn chế, điều kiện vệ sinh chưa bảo đảm, học vấn thấp đến tình trạng kết hôn sớm, làm gia tăng bất lợi đa chiều.

Nghiên cứu nhấn mạnh giáo dục, đặc biệt giáo dục trung học cho trẻ em gái, là “đòn bẩy” quan trọng để giảm nghèo liên thế hệ, giảm kết hôn sớm, qua đó đòi hỏi các can thiệp tổng hợp, linh hoạt, phù hợp đặc thù từng dân tộc.

Tại hội thảo, các đại biểu cũng trao đổi các ưu tiên chính sách: hoàn thiện chính sách dân số trong bối cảnh mới; bảo đảm di cư an toàn, hiệu quả; tăng bao phủ dịch vụ xã hội; nâng chất lượng nguồn nhân lực; và đẩy mạnh các chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số theo hướng bền vững, bao trùm. Dữ liệu nếu được khai thác đúng cách, sẽ trở thành “đòn bẩy” giúp chính sách đi trúng vấn đề, trúng nhóm đối tượng và kịp thời trước các chuyển động dân số ngày càng nhanh.

Bình luận