Tiến sĩ Hồ Hữu Nhựt - ủy viên UBMTTQ VN TP.HCM, nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Thanh niên Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam cũng đã trải qua những cái Tết ở chiến trường T4 Khu Sài Gòn – Gia định năm xưa trong làn đạn, bom rơi, trong hầm bí mật ngột ngạt với tâm thế cái chết luôn cận kề. Biết bao gian khổ, hy sinh mới có được cái Tết thanh bình hôm nay.
Sống gần hết một đời người, từng bao lần vào sinh ra tử, từng bấm đốt tay nhẩm tính trải qua bao nhiêu lần đối diện với cái chết, hôm nay nhìn lại những năm tháng bình yên, đất nước ngày một phát triển, ông Nhựt trân quý biết bao hai chữ “hòa bình - độc lập”. Trong những ngày xuân nắng ấm, ông Hồ Hữu Nhựt mở đầu câu chuyện Tết chiến trường xưa bằng đôi vần thơ:
Tết Bính Thân nhớ lại chuyện xưa
Gian khổ, hy sinh bao nắng mưa
Độc lập, phồn vinh cho Tổ quốc
Hạnh phúc đơm bông, lúa được mùa.
Nhớ lại đầu năm 1968, sau khi dự hội nghị thành lập lực lượng Dân tộc và Dân chủ và Hòa bình Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định, ông Nhựt công tác ở Thành Đoàn. Lúc bấy giờ, địch chuyển sang bình định cấp tốc, các vùng nông thôn giải phóng bị thu hẹp dần. Đang ở xã Thanh Hưng, tỉnh Tiền Giang, ông phải chuyển qua xã Hòa Lộc, Hòa Ninh tỉnh Vĩnh Long. Tại đây, ông Nhựt đã từng bị địch bắt nhưng trốn thoát được.
Mùa xuân năm 1969, Thành Đoàn phải dời căn cứ qua cồn Bình Thạnh, tỉnh Sa Đéc, công việc đầu tiên ông Nhựt phải làm là đào hầm bí mật. Tuy nhiên khi đào hầm xong, ông chưa vội sử dụng vì màu đất mới chưa hợp với màu đất cũ, địch nhìn vào rất dễ nhận biết.
Một hôm, nghe tiếng súng, ông đoán địch đang đi càn nhưng vẫn còn ở xa, nên đã nhập vào toán thanh niên trốn lính để ngụy trang. Khi đi dọc theo con kênh ngược với tiếng súng nổ, bỗng lu, chum, vại bên đường vỡ loảng xoảng, nhìn qua bên kia kênh, ông thấy lính ngụy rất đông. Chúng đang nhắm bắn vào phía đoàn người đi. Ông cùng mọi người cố chạy thật nhanh. Đạn bay ngang qua tai vèo vèo, làn mưa đạn đuổi theo sát gót. Đến một cái rạch nước, ông Nhựt nhanh trí nhảy xuống và chạy dưới rạch để tránh đạn...Lần đó, ông đã thoát chết trong gang tấc.
Lần khác, Mỹ đổ quân càn vào cồn Bình Thạnh, ông ra công sự và thấy mấy cô giao liên đứng ngồi kín cả lối đi. Quay vào căn nhà tranh gần đó, ông đứng quan sát ở cửa sổ để xem bọn lính Mỹ đi càn hướng nào. Bất ngờ, một chiếc trực thăng phát hiện ra ông, nó bay vòng quanh căn nhà rồi thòng móc sắt xuống để móc nóc nhà. Nếu lúc này ông chạy ra khỏi nhà, bọn lính Mỹ trên trực thăng sẽ bắn chết ngay. Còn nếu vào công sự nối trong nhà, khi nóc nhà bị bứng lên, bọn Mỹ sẽ ném lựu đạn vào công sự. Suy nghĩ trong chớp nhoáng, ông xác định chỉ còn một cách là ôm cột nhà, leo dần lên cao rồi rút chốt lựu đạn, chờ cho lựu đạn gần nổ thì tung vào bọn lính Mỹ đang ngồi trên trực thăng rồi buông tay ra. Trường hợp xấu nhất, dẫu có hy sinh thì cũng tiêu diệt được địch… Rất may là lần đó, sau khi chiếc trực thăng bay lượn ít vòng quanh nhà rồi bay đi, nếu không thì trận cận chiến thảm khốc đã diễn ra.
Di chuyển qua nhiều địa bàn hoạt động, đối mặt biết bao lần hiểm nguy, với ông Hồ Hữu Nhựt, kỷ niệm đáng nhớ nhất chính là những lần đón Tết ở chiến trường T4.
“Cái tết thứ nhất là tết Âm lịch năm 1969, tôi ở căn cứ Thành đoàn, cồn Bình Thạnh, thị xã Sa Đéc, tỉnh Sa Đéc. Lúc đó, gần đến Tết, những người gần nhà tôi ở, người ta đem đồ về cúng vái ông bà. Đồng thời, cán bộ Thành đoàn giao liên mua thức ăn về cho tôi trong mấy ngày tết. Bỗng nhiên tiếng nổ vang từ xa, địch đi càn, mọi người chạy sang thị xã Sa Đéc, tôi thì xuống hầm bí mật núp. Hầm bí mật lúc bấy giờ là nước ngang cổ, và cho đến khi êm tiếng súng thì tôi mới lên. Về nhà thì hỡi ôi, tất cả bánh trái của tôi và đồng bào bị đánh chén hết” - ông Hồ Hữu Nhựt nhớ lại.
Lần đó, khi từ hầm bí mật bước lên, quan sát xung quanh, ông Nhựt chợt thấy ở trước cửa nhà có một tờ giấy gài vào quai một chiếc dép, trên đó có để lại miếng giấy với dòng chữ “Tôi đến tìm mà anh Ba Thắng đi đâu mất tiêu” ký tên phía dưới là “anh Tư Tân”. Thì ra, ông Tư Tân, biệt động Thành Đoàn đã đến đây trước bọn lính và viết tên ông trên mặt dép để làm ký hiệu, cũng vì vậy mà bọn lính đã biết tên ông. Nếu biết ông Tư Tân là biệt động Thành Đoàn, chúng sẽ đi lùng, tìm và soi hầm bí mật, lúc đó cũng sẽ tìm ra “anh Ba Thắng” – tức bí danh của ông Nhựt và đó cũng là lúc “cáo chung” mạng sống của ông. Vì vậy, ông đã “lập trình” sẵn cho cái chết của mình: Khi địch mở nắp hầm, ông sẽ mở chốt lựu đạn đếm “một, hai, ba” rồi ném lựu đạn về phía địch. Lựu đạn chạm đất sẽ nổ, bọn địch chết và bị thương, lúc đó ông sẽ tốc hầm chạy. Nếu chúng bắn bị thương nặng, ông sẽ chờ bọn chúng đến gần, rút chốt lựu đạn thứ hai, bọn chúng và ông cùng chết…
Tiến sỹ Hồ Hữu Nhựt. Ảnh: Lệ Loan
Những câu chuyện về cái chết cận kề hay chuẩn bị sẵn tinh thần hy sinh như một cảm tử quân ngày ấy, dù hơn 4 thập niên đã trôi qua, nhưng ông Nhựt vẫn nhớ như in đến từng chi tiết. Và rồi cứ mỗi dịp Tết đến xuân về, bên ly trà ấm, ông lại nhắc nhớ cùng với các đồng chí, đồng đội T4 Khu Sài Gòn – Gia định năm xưa.
“Cái tết năm 1973 là cái tết không có bom, đạn. Bởi khi đó có Hiệp định Paris, tôi về văn phòng Thành ủy, không ở Thành Đoàn nữa, làm tổng hợp Thành ủy, trợ lý cho anh Nguyễn Văn Linh và anh Mai Chí Thọ trong vòng 3 năm. Ngoài giờ làm việc, lúc rãnh rỗi, tôi canh tác để cải thiện đời sống. Cái tết này là cái tết tôi nhớ nhất về tình đồng chí, đồng đội thời kháng chiến.” - ông Hồ Hữu Nhựt nói.
Ngày Tết năm đó, ông Nhựt ra vườn đào khoai lang nghệ chia cho các bộ phận: nghiên cứu tổng hợp, văn phòng, bảo vệ. Các bộ phận đó cũng luân phiên mời ông cùng ăn những món “cây nhà là vườn” do anh em trồng để đón Tết. Ông nhớ hoài những món ăn có khoai lang nghệ luôn ấm tình tình đồng chí, đồng đội thời kháng chiến. Với ông, Tết ở T4 sao mà đẹp và đầm ấm quá!
Tháng 7 năm 1974, cánh A (cánh đô thị) của Thành ủy chuyển căn cứ về Bình Sơn – Long Thành, ông Nhựt theo ông Mai Chí Thọ từ làng 18, Bến Cát, qua chiến khu Đ rồi vượt thác Trị An, qua lộ 20, ấp chiến lược, băng rừng về Bình Sơn. Tết đến, các ông đã nghe lời chúc Tết “tiên tri” của ông Mai Chí Thọ “Tết này ăn tết đạm bạc trong rừng, tết sau sẽ ăn tết linh đình tại đô thành Sài Gòn, chí ít cũng ở ngoại ô Sài Gòn”. Lời chúc Tết đó đã trở thành hiện thực. Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đại thắng, ngày 30/4/1975, Sài Gòn được giải phóng, non sông đất nước liền một dải, vững tin lên ấm no, hạnh phúc.

