Vụ cô Lê Thị Dung: Mức án có quá nghiêm khắc?

VOH - Vụ án xử cô Lê Thị Dung bị tuyên án 5 năm tù vì gây thiệt hại số tiền 45 triệu đồng, chuyên gia nhận định thế nào?

Vụ án cô Lê Thị Dung, nguyên Giám đốc Trung tâm GDNN-GDTX Hưng Nguyên, Nghệ An bị TAND huyện Hưng Nguyên tuyên phạt 5 năm tù giam vì tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” nếu so với các vụ án khác cùng tội danh sẽ như thế nào? Luật sư Nguyễn Thế Hùng trao đổi quanh vấn đề này?

Lực lượng chức năng khám xét phòng làm việc của bà Lê Thị Dung.
Lực lượng chức năng khám xét phòng làm việc của bà Lê Thị Dung - Ảnh: NDO

*VOH: Việc làm hay không làm của cá nhân gây hậu quả thiệt hại cho nhà nước từ bao nhiêu tiền trở lên thì cấu thành tội lợi dụng chức vụ quyền hạn?

LS Nguyễn Thế Hùng: Theo quy định hiện hành thì người nào “vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ gây thiệt hại về tài sản từ 10 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng thì đã cấu thành tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ...”

Khái niệm “việc làm hay không làm của cá nhân gây thiệt hại cho nhà nước và xã hội” cũng chính là hành vi luật định mô tả là “làm trái công vụ”.

*VOH: Xin ông cho biết về khái niệm bản án trái pháp luật hay bản án không đúng qui định pháp luật?

LS Nguyễn Thế Hùng: Bản án trái pháp luật là một văn bản tố tụng do một hội đồng xét xử - dưới quyền chủ tọa của một vị thẩm phán - mà trong các thành phần cấu tạo của bản án (gồm phần mở đầu, phần nội dung vụ án, phần nhận định, đánh giá, chứng minh và phần quyết định) trong đó phần quyết định đã xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng một cách nghiêm trọng.  

Cần nhận thức rằng, dù bản án là sản phẩm chung của nhiều cơ quan thẩm quyền trong chuỗi quá trinh điều tra, truy tố, xét xử nhưng lại chính là kết quả trực tiếp và cuối cùng của hoạt động xét xử của một hội đồng xét xử cụ thể, vì vậy chủ thể chịu trách nhiệm trực tiếp đối với bản án trái pháp luật là của chính  hội đồng xét xử đó.

VOH: Kháng cáo về mức hình phạt và kháng cáo kêu oan khác nhau như thế nào?

Ls Nguyễn Thế Hùng: Có thể chia sẻ như sau: Kháng cáo về hình phạt (tức là kháng cáo, khái niệm theo luật định), là một hành vi chống án thuộc về quyền của bị cáo, bị hại, hoặc là người đại diện của họ khi có bản án hình sự sơ thẩm mà họ không đồng ý.

“Kháng cáo kêu oan” là một khái niệm trong dân gian có cùng mục đích, yêu cầu như kháng cáo. Tuy nhiên cần hiểu rằng, kháng cáo là một thủ tục được tiến hành sau khi bản án được tuyên tại phiên tòa sơ thẩm chưa có hiệu lực.

Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, trong 15 ngày, kể từ ngày tòa sơ thẩm tuyên án, nếu không đồng ý với phán quyết của tòa, các bên có quyền nộp đơn kháng cáo để yêu cầu xét xử phúc thẩm bản án đó.

Cho tới nay, pháp luật tố tụng hình sự không có một quy định nào liên quan đến “trình tự thủ tục kêu oan”. Vì vậy, để có thể tự bảo vệ chính mình trong giai đoạn điều tra và khởi tố thì người bị tạm giam, bị can có thể

(1) gửi “thư kêu oan” hoặc đề nghị được trình bày trực tiếp với cơ quan điều tra trong đó đưa ra các căn cứ cần được quan tâm.

(2) đề nghị viện kiểm sát nghiên cứu, xem xét việc trả hồ sơ cho cơ quan điều tra, yêu cầu điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố.

(3) trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, cũng có thể trực tiếp “gửi lời kêu oan” ngay tại tòa.

*VOH: Việc xem xét mức án thì ngoài qui định pháp luật cần có yếu tố gì để được coi là bản án có tính nhân văn

Ls Nguyễn Thế Hùng: Chúng ta biết rằng khi xem xét mức hình phạt, tòa án buộc phải căn cứ vào các quy định của Bộ luật Hình sự, và chỉ duy nhất là Bộ luật hình sự khi định tội, định khung. Đó là phải cân nhắc về tính chất và mức độ gây nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi cấu thành tội phạm sao cho đủ sức răn đe chính đương sự cũng như ngăn chặn sự vi phạm trong tương lai, một cách tương tự, của các chủ thể khác.

Tuy nhiên, pháp luật hình sự cũng đặt ra nhiều nguyên tắc để một tòa án có thẩm quyền xét xử án hình sự có thể tuyên một bản án mang đậm tính nhân văn, mà vẫn thực hiện được mục đích của pháp luật hình sự, khi cần thiết.

Chẳng hạn tòa hình sự sẽ xem xét giảm nhẹ hình phạt khi người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm, tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;

Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;

Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra; Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;…

Như vậy, ngay trong Bộ luật hình sự đã chứa đựng “thuộc tính” nhân văn.

*VOH: Trong vụ án xét xử Bà Lê Thị Dung, nguyên Giám đốc Trung tâm GDNN-GDTX Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An bị TAND huyện này tuyên phạt 5 năm tù giam vì tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”. Bị cáo Dung đã chi sai là 44,7 triệu kéo dài trong thời gian trong 5 năm thì đây có phải trường hợp phạm tội nghiêm trọng cần xử lý nghiêm để làm gương hay không? 

LS Nguyễn Thế Hùng: Theo những qui định của pháp luật và nội dung vụ án đã được công khai thì đây là một bản án nghiêm khắc quá mức cần thiết để thực hiện mục đích của pháp luật hình sự, kể cả trong trường hợp sự thật hoàn toàn đúng như nhận định của tòa án đã xét xử.

Tòa này nhận định, trong khoảng thời gian kéo dài từ 2012 đến 2017, bà Lê Thị Dung đã "lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ", gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước gần 45 triệu đồng.

Tòa tuyên án theo quy định tại khoản 2, Điều 356 Bộ luật Hình sự năm 2015 bà Lê Thị Dung phải nhận là 5 năm tù giam.

Thông tin chung quanh vụ xét xử cho biết bà Lê Thị Dung đã và đang quyết liệt  kêu oan mà không chống án.

Dư luận xã hội đang tỏ ra rất băn khoăn về bản án này giữa bối cảnh chung: Đã có nhiều bản án hết sức “nhân văn, nhân đạo” khi gây “thiệt hại khủng” và đây lại là một “bản án quá nghiêm khắc” với hậu quả dễ dàng khắc phục và người phạm tội chắc chắn thừa tình tiết giảm nhẹ để được xem xét chuyển khung.

*VOH: Trong vụ án này, ông thấy có cần thiết phải thực hiện biện pháp ngăn chặn là tạm giam đối với bị cáo theo các qui định của pháp luật hay không?

Ls Nguyễn Thế Hùng: Tạm giam là một biện pháp ngăn chặn cần thiết đối với bị can, bị cáo vi phạm pháp luật hình sự.

Theo qui định, biện pháp tạm giam hầu như có thể được áp dụng đối với tất cả các loại tội phạm.

Riêng đối với các bị can, bị cáo là phụ nữ có thai (hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi), là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì cơ quan tiến hành tố tụng không áp dụng biện pháp tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ các trường hợp sau đây:

- Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã;

- Tiếp tục phạm tội;

- Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này;

- Bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.

Độc giả đối chiếu các quy định trên để xem xét các tình huống pháp lý liên quan trong thực tiễn các hoạt động tố tụng cụ thể. Riêng đối với vụ án của cô giáo Lê Thị Dung, như tôi đã chia sẻ, là hình phạt vượt quá mức cần thiết, trong cả tình huống hành vi đã cấu thành tội phạm. Do vậy biện pháp tạm giam rồi gia hạn tạm giam, thiết nghĩ là hoàn toàn không phù hợp.

Tôi dám nghĩ đến một sự "oan sai" có thể đã xảy ra với cô giáo, không phải trong chính vụ án của cô mà so sánh với các bản án "nhẹ hều" của các vụ án về tham nhũng nghiêm trọng khác.

*VOH: Xin cảm ơn Ls.

Bình luận