Chờ...

Tuyển tập thơ Nguyễn Bính - Một hồn thơ "chân quê"

VOH - Thơ Nguyễn Bính được đông đảo bạn đọc đón nhận và để lại dấu ấn khó phai nhờ sự mộc mạc, lãng mạn, tha thiết, đượm tình.

Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ lớn của văn học Việt Nam thế kỷ XX. Thơ Nguyễn Bính mang đậm dấu ấn lãng mạn, sâu lắng thể hiện tình yêu đất nước, tình yêu đời và tình yêu giữa con người. Văn phong của ông tuy giản dị nhưng thấm đượm tình cảm, để lại ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc.

1. Đôi nét về Nguyễn Bính

1.1 Cuộc đời và sự nghiệp

Nguyễn Bính (1918 - 1966), tên thật là Nguyễn Trọng Bính, quê ở Nam Định. Cha là Nguyễn Đạo Bình, làm nghề giáo. Mẹ là Bùi Thị Miện, con gái một gia đình khá giả. Khi mẹ mất, anh em ông được dì và cậu ruột đón về nhà nuôi ăn học. 

Ngay từ khi còn nhỏ, Nguyễn Bính đã có tài làm thơ nên được cậu khen và cưng chiều. Năm 13 tuổi, ông đã sáng tác thơ để tham dự cuộc thi hát trống quân đầu xuân ở hội làng và đoạt giải nhất. Sau này, nhà thơ ra Hà Nội ở với anh trai ruột Nguyễn Mạnh Phác (Trúc Đường) và được anh dạy cho Văn học Pháp. Năm 1932 - 1933, ông theo bạn lên Đồng Hỷ, Thái Nguyên dạy học. 

Bài thơ đăng báo đầu tiên của Nguyễn Bính là bài Cô gái mơ. Năm 1937, ông nhận giải khuyến khích của nhóm Tự lực văn đoàn với tập thơ Tâm hồn tôi. Năm 1940, nhà thơ bắt đầu nổi tiếng với hàng loạt tác phẩm với đề tài phong phú, đặc biệt là thơ tình.

Về sau, Nguyễn Bính ra Huế tìm đề tài sáng tác dưới sự giúp đỡ của Trúc Đường. Tiếp theo đó, ông trở lại Hà Nội, rồi vào Sài Gòn. Năm 1944, nhà thơ tiếp tục giành giải nhất Giải văn học Nam Xuyên với tác phẩm Tỳ Bà truyện

Năm 1947, Nguyễn Bính tham gia cách mạng. Năm 1954, ông tập kết ra Bắc và công tác tại Nhà xuất bản Văn nghệ. Sau đó, nhà thơ làm chủ bút báo Trăm hoa. Năm 2000, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật.

Suốt 30 năm cống hiến cho nghệ thuật, Nguyễn Bính đã để lại nhiều tác phẩm với các thể loại như thơ, kịch, truyện thơ. Những sáng tác tiêu biểu của ông gồm Tương tư, Chân quê, Lỡ bước sang ngang, Những bóng người trên sân ga,... Ông được độc giả công nhận là một trong những nhà thơ xuất sắc của thi ca Việt Nam hiện đại. 

tho-nguyen-binh-voh-0

1.2 Phong cách thơ Nguyễn Bính

Trong khi các thi sĩ cùng thời chịu sự ảnh hưởng của văn học phương Tây, họ đi tìm cho mình lối viết tự do, phá cách thì Nguyễn Bính lại chọn lối đi riêng với những vần thơ dung dị, độc đáo.  Đọc thơ Nguyễn Bính, độc giả cảm nhận được một hồn thơ đậm chất làng quê, mang sắc thái dân dã, mộc mạc. 

Thơ Nguyễn Bính là dấu nối thơ hiện đại và thơ dân gian. Những sáng tác của ông chứa đựng sự bình dị của ca dao, của những khúc hát đồng quê. 

Xem thêm:
Thơ Xuân Quỳnh: gợi nhớ, gợi thương khiến người đọc vấn vương mãi không thôi!
Tuyển tập 25 bài thơ của Tố Hữu sống mãi trong lòng người đọc

2. Thơ Nguyễn Bính về tình yêu

Nếu Xuân Diệu là "Ông hoàng thơ tình" thì Nguyễn Bính được mệnh danh là "Vua thơ tình". Thơ Nguyễn Bính về tình yêu là những trang thơ rất tình và da diết, chất chứa sự chờ đợi và biệt ly.

2.1 Bài thơ: Chân quê

Hôm qua em đi tỉnh về,

Đợi em ở mãi con đê đầu làng.

Khăn nhung, quần lĩnh rộn ràng.

Áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi!

Nào đâu cái yếm lụa sồi?

Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân?

Nào đâu cái áo tứ thân?

Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen?

 

Nói ra sợ mất lòng em,

Van em! Em hãy giữ nguyên quê mùa.

Như hôm em đi lễ chùa,

Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh.

Hoa chanh nở giữa vườn chanh,

Thầy u mình với chúng mình chân quê.

Hôm qua em đi tỉnh về,

Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều.

tho-nguyen-binh-voh-1

2.2 Bài thơ: Tương tư

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,

Một người chín nhớ mười mong một người.

Gió mưa là bệnh của giời,

Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.

 

Hai thôn chung lại một làng,

Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?

Ngày qua ngày lại qua ngày,

Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.

 

Bảo rằng cách trở đò giang,

Không sang là chẳng đường sang đã đành.

Nhưng đây cách một đầu đình,

Có xa xôi mấy mà tình xa xôi...

 

Tương tư thức mấy đêm rồi,

Biết cho ai, hỏi ai người biết cho!

Bao giờ bến mới gặp đò?

Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau?

 

Nhà em có một giàn giầu,

Nhà anh có một hàng cau liên phòng.

Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,

Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?

2.3 Bài thơ: Ghen 

Cô nhân tình bé của tôi ơi!

Tôi muốn môi cô chỉ mỉm cười

Những lúc có tôi, và mắt chỉ

Nhìn tôi những lúc tôi xa xôi.

 

Tôi muốn cô đừng nghĩ đến ai,

Đừng hôn dù thấy bó hoa tươi.

Đừng ôm gối chiếc đêm nay ngủ,

Đừng tắm chiều nay biển lắm người.

 

Tôi muốn mùi thơm của nước hoa,

Mà cô thường xức, chẳng bay xa,

Chẳng làm ngây ngất người qua lại,

Dẫu chỉ qua đường khách lại qua.

 

Tôi muốn những đêm đông giá lạnh,

Chiêm bao đừng lẩn quất bên cô,

Bằng không, tôi muốn cô đừng gặp

Một trẻ trai nào trong giấc mơ.

 

Tôi muốn làn hơi cô thở nhẹ,

Đừng làm ẩm áo khách chưa quen.

Chân cô in vết trên đường bụi,

Chẳng bước chân nào được giẫm lên.

 

Nghĩa là ghen quá đấy mà thôi,

Thế nghĩa là yêu quá mất rồi,

Và nghĩa là cô và tất cả,

Cô, là tất cả của riêng tôi.

2.4 Bài thơ: Cô hái mơ

Thơ thẩn đường chiều một khách thơ,

Say nhìn xa rặng núi xanh lơ,

Khí trời lặng lẽ và trong trẻo,

Thấp thoáng rừng mơ cô hái mơ.

 

Hỡi cô con gái hái mơ già!

Cô chửa về ư? Đường thì xa,

Mà ánh trời hôm dần một tắt,

Hay cô ở lại về cùng ta?

 

Nhà ta ở dưới gốc cây dương,

Cách động Hương Sơn nửa dặm đường,

Có suối nước trong tuôn róc rách,

Có hoa bên suối ngát đưa hương.

 

Cô hái mơ ơi!

Chả giả lời nhau lấy một lời,

Cứ lặng rồi đi, rồi khuất bóng,

Rừng mơ hiu hắt lá mơ rơi.

tho-nguyen-binh-voh-2

2.5 Bài thơ: Những bóng người trên sân ga

Những cuộc chia lìa khởi tự đây,

Cây đàn sum họp đứt từng dây.

Những đời phiêu bạt, thân đơn chiếc,

Lần lượt theo nhau suốt tối ngày...

 

Có lần tôi thấy hai cô bé,

Sát má vào nhau khóc sụt sùi.

Hai bóng chung lưng thành một bóng,

“- Đường về nhà chị chắc xa xôi?”

 

Có lần tôi thấy một người yêu,

Tiễn một người yêu một buổi chiều,

Ở một ga nào xa vắng lắm!

Họ cầm tay họ, bóng xiêu xiêu.

 

Hai chàng tôi thấy tiễn chân nhau,

Kẻ ở sân toa, kẻ dưới tàu,

Họ giục nhau về ba bốn bận,

Bóng nhòa trong bóng tối từ lâu.

 

Có lần tôi thấy vợ chồng ai,

Thèn thẹn đưa nhau, bóng chạy dài,

Chị mở khăn giầu, anh thắt lại:

“- Mình về nuôi lấy mẹ, mình ơi!”

 

Có lần tôi thấy một bà già,

Đưa tiễn con đi trấn ải xa.

Tàu chạy lâu rồi, bà vẫn đứng,

Lưng còng đổ bóng xuống sân ga.

 

Có lần tôi thấy một người đi,

Chẳng biết vì đâu, nghĩ ngợi gì!

Chân bước hững hờ theo bóng lẻ,

Một mình làm cả cuộc phân ly.

 

Những chiếc khăn màu thổn thức bay,

Những bàn tay vẫy những bàn tay,

Những đôi mắt ướt nhìn đôi mắt,

Buồn ở đâu hơn ở chốn này?

 

Tôi đã từng chờ những chuyến xe,

Đã từng đưa đón kẻ đi về.

Sao nhà ga ấy, sân ga ấy,

Chỉ để cho lòng dấu biệt ly?

(Một số bản in không có khổ thơ này)

2.6 Bài thơ: Bóng bướm

Cành dâu cao, lá dâu cao

Lênh đênh bóng bướm trôi vào mắt em.

Anh đi đèn sách mười niên

Biết rằng bóng bướm có lên kinh thành.

 

Cành dâu xanh, lá dâu xanh

Một mình em hái, một mình em thương.

Mới rồi mãn khóa thi hương

Ngựa điều, võng tía qua đường những ai?

2.7 Bài thơ: Cái quạt

“Cái quạt mười tám cái nan”

Anh phất vào đấy muôn vàn nhớ nhung.

- Gió sông, gió núi, gió rừng!

Anh niệm thần chú thì ngừng lại đây!

Gió nam bắc, gió đông tây!

Hãy hầu công chúa thâu ngày thâu đêm.

 

Em ơi, công chúa là em,

Anh là quan trạng đi xem hoa về.

“Trên giời có vẩy tê tê,”

Đôi bên ước thề, duyên sẽ tròn duyên.

Quạt này trạng để làm tin,

Đêm nay khép mở tình duyên với nàng.

2.8 Bài thơ: Đôi mắt

Vò nhàu chéo áo làm vui

Ướt đôi mắt đẹp nhìn tôi nặng tình

Sông đầy lạnh bến dừa xanh

Kể từ ngày cưới xa anh lần đầu.

 

Chiều quê lùi lại sau tàu

Mắt em sáng mãi chòm sao trên trời

Đưa chồng vượt biển ra khơi

Đêm đêm con mắt vì tôi thức ròng...

 

Miền Nam em đứng trông chồng

Đầu sông ngọn sóng một lòng đinh ninh

Có trong đôi mắt em xinh

Ánh hồ Gươm biếc in hình ảnh tôi.

 

Xóm thưa bằn bặt tiếng cười

Lúa non đổ bãi, trái tươi rụng vườn

Mắt em sực tỉnh lửa hờn

Trái ngon lại chín, lúa thơm lại vàng.

 

Nghiêng đầu hôn tóc con ngoan

Mắt em giếng ngọt mơ màng trăng thanh

Con nhìn mắt mẹ long lanh

Đẹp lời sông núi thắm tình cha con.

 

Mây bay tóc phố đầu thôn

Anh thương đôi mắt vẫn tròn ánh sao

Mây thu thăm thẳm từng cao

Mắt em rót sáng thêm vào mắt anh.

 

Đường về dựng suối treo ghềnh

Chân ta vững bước, mắt mình rối trông

Chiều quê lại ngát hương đồng

Đẹp sao đôi mắt tiễn chồng hôm xưa…

tho-nguyen-binh-voh-3

2.9 Bài thơ: Lỡ bước sang ngang

I

“- Em ơi, em ở lại nhà,

Vườn dâu em đốn, mẹ già em thương.

Mẹ già một nắng hai sương,

Chị đi một bước trăm đường xót xa.

Cậy em, em ở lại nhà,

Vườn dâu em đốn, mẹ già em thương.

 

Hôm nay xác pháo đầy đường,

Ngày mai khói pháo còn vương khắp làng.

Chuyến này chị bước sang ngang

Là tan vỡ giấc mộng vàng từ nay.

Rượu hồng em uống cho say,

Vui cùng chị một vài giây cuối cùng.

(Rồi đây sóng gió ngang sông,

Đầy thuyền hận, chị lo không tới bờ)

Miếu thiêng vụng kén người thờ,

Nhà hương khói lạnh, chị nhờ cậy em.

Đêm qua là trắng ba đêm,

Chị thương chị, kiếp con chim lìa đàn.

Một vai gánh lấy giang san...

Một vai nữa gánh muôn vàn nhớ thương.

Mắt quầng, tóc rối tơ vương,

Em còn cho chị lược gương làm gì!

Một lần này bước ra đi,

Là không hẹn một lần về nữa đâu.

Cách mấy mươi con sông sâu,

Và trăm nghìn vạn dịp cầu chênh vênh.

Cũng là thôi... cũng là đành...

Sang ngang lỡ bước riêng mình chị sao?

Tuổi son nhạt thắm phai đào,

Đầy thuyền hận, có biết bao nhiêu người!

Em đừng khóc nữa, em ơi!

Dẫu sao thì sự đã rồi, nghe em!

Một đi bảy nổi ba chìm,

Trăm cay, ngàn đắng, con tim héo dần.

Dù em thương chị mười phần,

Cũng không ngăn nổi một lần chị đi.”

 

Chị tôi nước mắt đầm đìa,

Chào hai họ để đi về nhà ai...

Mẹ trông theo, mẹ thở dài,

Dây pháo đỏ bỗng vang trời nổ ran.

Tôi ra đứng ở đầu làng,

Ngùi trông theo chị khuất ngàn dâu thưa.

 

II

Trời mưa ướt áo làm gì?

Năm mười bảy tuổi chị đi lấy chồng.

Người ta: pháo đỏ rượu hồng,

Mà trên hồn chị: một vòng hoa tang.

Lần đầu chị bước sang ngang,

Tuổi son sông nước đò giang chưa tường.

Ở nhà, em nhớ mẹ thương,

Ba gian trống, một mảnh vườn xác xơ.

Mẹ ngồi bên cửi xe tơ,

Thời thường nhắc: Chị mày giờ ra sao?

“- Chị bây giờ”... Nói thế nào?

Bướm tiên khi đã lạc vào vườn hoang.

Chị từ lỡ bước sang ngang,

Trời dông bão, giữa tràng giang, lật thuyền.

Xuôi dòng nước chảy liên miên,

Đưa thân thế chị tới miền đau thương.

Mười năm gối hận bên giường,

Mười năm nước mắt bữa thường thay canh.

Mười năm đưa đám một mình,

Đào sâu chôn chặt mối tình đầu tiên.

Mười năm lòng lạnh như tiền,

Tim đi hết máu, cái duyên không về.

 

“Nhưng em ơi, một đêm hè,

Hoa xoan nở, xác con ve hoàn hồn.

Dừng chân trên bến sông buồn,

Nhà nghệ sĩ tưởng đò còn chuyến sang.

Đoái thương, thân chị lỡ làng.

Đoái thương phận chị dở dang những ngày.

Rồi... rồi... chị nói sao đây!

Em ơi, nói nhỏ câu này với em...

...Thế rồi máu trở về tim,

Duyên làm lành chị duyên tìm về môi.

Chị nay lòng ấm lại rồi,

Mối tình chết đã có người hồi sinh.

Chị từ dan díu với tình,

Đời tươi như buổi bình minh nạm vàng.

 

“Tim ai khắc một chữ “nàng”

Mà tim chị một chữ “chàng” khắc theo.

Nhưng yêu chỉ để mà yêu,

Chị còn dám ước một điều gì hơn.

Một lầm hai lỡ keo sơn,

Mong gì gắn lại phím đàn ngang cung.

Rồi đêm kia, lệ ròng ròng,

Tiễn đưa người ấy sang sông, chị về.

“Tháng ngày qua cửa buồng the.

Chị ngồi nhặt cánh hoa lê cuối mùa.”

 

III

Úp mặt vào hai bàn tay,

Chị tôi khóc suốt một ngày một đêm.

 

“- Đã đành máu trở về tim,

Nhưng khôn buộc nổi cánh chim giang hồ.

Người đi xây dựng cơ đồ...

Chị về giồng cỏ nấm mồ thanh xuân.

Người đi khoác áo phong trần,

Chị về may áo liệm dần nhớ thương.

Hồn trinh ôm chặt chân giường,

Đã cùng chị khóc đoạn trường thơ ngây.

Năm xưa đêm ấy giường này,

Nghiến răng... nhắm mắt... cau mày... cực chưa!

Thế là tàn một giấc mơ,

Thế là cả một bài thơ não nùng!

Tuổi son má đỏ môi hồng,

Bước chân về đến nhà chồng là thôi!

Đêm qua mưa gió đầy giời,

Trong hồn chị, có một người đi qua...

 

Em về thương lấy mẹ già,

Đừng mong ngóng chị nữa mà uổng công.

Chị giờ sống cũng bằng không,

Coi như chị đã ngang sông đắm đò.”

2.10 Bài thơ: Bảy chữ

Mây trắng đang xây mộng viễn hành,

Chiều nay tôi lại ngắm giời xanh,

Giời xanh là một tờ thư rộng,

Tôi thảo lên trời mấy nét nhanh.

 

Viết trọn năm dài theo vách đá,

Bốn bề lá đổ ngợp hơi thu,

Vừa may cánh nhạn về phương ấy,

Tôi gửi cho nàng bức ngọc thư.

 

Xe ngựa chiều nay ngập thị thành,

Chiều nay nàng bắt được giời xanh,

Đọc xong bảy chữ thì thương lắm:

“Vạn lý tương tư, vũ trụ tình”.

tho-nguyen-binh-voh-4

2.11 Bài thơ: Không ngủ

Có giăng bóng lạnh vườn đào,

Có giàn nhạc ngựa lơi vào trong đêm.

Và trong lòng với con tim,

Có lời em, có bóng em rõ ràng.

 

Thuyền giăng ai thả sang đoài,

Đêm khuya mở nhẹ then cài cửa ra.

Giăng vào bóng nữa là ba,

Với em ở trái tim ta là nhiều.

2.12 Bài thơ: Hái mồng tơi

Hoa lá quanh người lác đác rơi

Cuối vườn đeo giỏ hái mồng tơi

Mồng tơi ứa đỏ đôi tay nõn

Cô bé nhìn tay nhí nhảnh cười.

 

Cách vườn tiếng gọi khẽ đưa sang

Rẽ lá cô em trốn vội vàng

Quên giỏ mồng tơi bên giậu vắng

Tôi đem nhặt lấy gởi đưa nàng.

 

Năm tháng ta vui chốn ngựa hồng

Cảnh xưa gò ngựa một chiều đông

Cây khô dậu đổ mồng tơi héo

Cô bé nhà bên đã có chồng.

2.13 Bài thơ: Người hàng xóm 

Nhà nàng ở cạnh nhà tôi,

Cách nhau cái giậu mồng tơi xanh rờn.

Hai người sống giữa cô đơn,

Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi.

Giá đừng có giậu mồng tơi,

Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng.

 

Tôi chiêm bao rất nhẹ nhàng...

Có con bướm trắng thường sang bên này.

Bướm ơi! Bướm hãy vào đây!

Cho tôi hỏi nhỏ câu này chút thôi...

Chả bao giờ thấy nàng cười,

Nàng hong tơ ướt ra ngoài mái hiên,

Mắt nàng đăm đắm trông lên...

 

Con bươm bướm trắng về bên ấy rồi!

Bỗng dưng tôi thấy bồi hồi,

Tôi buồn tự hỏi: “Hay tôi yêu nàng?”

- Không, từ ân ái nhỡ nhàng,

Tình tôi than lạnh gió tàn làm sao!

Tơ hồng nàng chả cất vào,

Con bươm bướm trắng hôm nào cũng sang.

 

Mấy hôm nay chẳng thấy nàng,

Giá tôi cũng có tơ vàng mà hong.

Cái gì như thể nhớ mong?

Nhớ nàng? Không! Quyết là không nhớ nàng!

Vâng, từ ân ái nhỡ nhàng,

Lòng tôi riêng nhớ bạn vàng ngày xưa.

 

Tầm tầm giời cứ đổ mưa,

Hết hôm nay nữa là vừa bốn hôm.

Cô đơn buồn lại thêm buồn...

Tạnh mưa bươm bướm biết còn sang chơi?

 

Hôm nay mưa đã tạnh rồi!

Tơ không hong nữa, bướm lười không sang.

Bên hiên vẫn vắng bóng nàng,

Rưng rưng... tôi gục xuống bàn rưng rưng...

Nhớ con bướm trắng lạ lùng!

Nhớ tơ vàng nữa, nhưng không nhớ nàng.

 

Hỡi ơi! Bướm trắng tơ vàng!

Mau về mà chịu tang nàng đi thôi!

Đêm qua nàng đã chết rồi,

Nghẹn ngào tôi khóc... Quả tôi yêu nàng.

 

Hồn trinh còn ở trần gian?

Nhập vào bướm trắng mà sang bên này!

tho-nguyen-binh-voh-5

2.14 Bài thơ: Cô lái đò

Xuân đã đem mong nhớ trở về

Lòng cô gái ở bến sông kia.

Cô hồi tưởng lại ba xuân trước,

Trên bến cùng ai đã nặng thề.

 

Nhưng rồi người khách tình, xuân ấy,

Đi biệt không về với... bến sông.

Đã mấy lần xuân trôi chảy mãi,

Mấy lần cô gái mỏi mòn trông.

 

Xuân này đến nữa đã ba xuân,

Đốm lửa tình duyên tắt nguội dần.

Chẳng lẽ ôm lòng chờ đợi mãi,

Cô đành lỗi ước với tình quân.

 

Bỏ thuyền, bỏ bến, bỏ dòng trong,

Cô lái đò kia đi lấy chồng.

Vắng bóng cô em từ dạo ấy,

Để buồn cho những khách sang sông…

2.15 Bài thơ: Hôn nhau lần cuối

Cầm tay anh khẽ nói:

Khóc lóc mà làm chi?

Hôn nhau một lần cuối,

Em về đi, anh đi.

 

Rồi một hai ba năm,

Danh thành, anh trở lại.

Với em, anh chăn tằm,

Với em, anh dệt vải.

 

Ta sẽ là vợ chồng,

Sẽ yêu nhau mãi mãi.

Sẽ xe sợi chỉ hồng,

Sẽ hát câu ân ái.

 

Anh và em sẽ sống

Trong một mái nhà gianh.

Lấy trúc thưa làm cổng,

Lấy tơ liễu làm mành.

 

Nghe lời anh, em hỡi!

Khóc lóc mà làm chi?

Hôn nhau một lần cuối,

Em về đi! Anh đi.

tho-nguyen-binh-voh-6

2.16 Bài thơ: Viếng hồn trinh nữ 

Chiều về chầm chậm trong hiu quạnh,

Tơ liễu theo nhau chảy xuống hồ,

Tôi thấy quanh tôi và tất cả

Kinh thành Hà Nội quấn khăn sô.

 

Nước mắt chạy quanh, tình thắt lại,

Giờ đây tôi khóc một người về,

Giờ đây tôi thấy hồn cay đắng,

Như có ai mời chén biệt ly.

 

Sáng nay vô số lá vàng rơi,

Người gái trinh kia đã chết rồi.

Có một chiếc xe màu trắng đục,

Hai con ngựa trắng bước hàng đôi,

 

Đem đi một chiếc quan tài trắng,

Và những vòng hoa trắng lạnh người.

Theo bước những người khăn áo trắng,

Khóc hồn trinh trắng mãi không thôi.

 

Để đưa nàng đến nghĩa trang này,

Nàng đến đây rồi ở lại đây.

Ờ nhỉ! Hôm nay là mấy nhỉ,

Suốt đời tôi nhớ mãi hôm nay...

 

Sáng nay, sau một cơn mưa lớn,

Hà Nội bừng lên những nắng vàng.

Có những cô nàng trinh trắng lắm,

Buồn rầu theo vết bánh xe tang.

 

Từ nay xa cách mãi mà thôi,

Tìm thấy làm sao được bóng người,

Vừa mới hôm nào còn thẹn thẹn.

Tay cầm sáp đỏ đặt lên môi.

 

Chiếc áo màu xanh tựa nước hồ,

Nàng vừa may với gió đầu thu.

Gió thu còn lại bao nhiêu gió,

Chiếc áo giờ đây ở dưới mồ!

 

Chắc hẳn những đêm như đêm qua,

Nàng còn say mộng ở chăn hoa.

- Chăn hoa ướp một trời xuân sắc -

Đến tận tàn canh, rộn tiếng gà.

 

Chắc hẳn những đêm như đêm kia,

Nửa đêm lành lạnh gió thu về.

Nàng còn thao thức ôm cho chặt

Chiếc gối nhung mềm giữa giấc mơ.

 

Nhưng sáng hôm nay nàng lặng im,

Máu đào ngừng lại ở nơi tim.

Mẹ già xé vội khăn tang trắng,

Quấn vội lên đầu mấy đứa em.

 

Người mẹ già kia tuổi đã nhiều,

Đã từng đau khổ biết bao nhiêu!

Mà nay lại khóc thêm lần nữa,

Nước mắt còn đâu buổi xế chiều?

 

Những đứa em kia chưa khóc ai,

Mà nay đã khóc một người rồi!

Mà nay trên những môi ngoan ấy,

Chả được bao giờ gọi: Chị ơi!

 

Nàng đã qua đời để tối nay,

Có chàng đi hứng gió heo may,

Bên hồ để mặc mưa rơi ướt,

Đếm mãi bâng quơ những dấu giày...

 

Người ấy hình như có biết nàng,

Có lần toan tính chuyện sang ngang.

Nhưng hồn nàng tựa con thuyền bé,

Vội cắm nghìn thu ở suối vàng.

 

Có gì vừa mất ở đâu đây?

Lòng thấy mềm như rượu quá say.

Hốt hoảng chàng tìm trong bóng tối:

Bàn tay lại nắm phải bàn tay.

 

Chỉ một vài hôm nữa, thế rồi

(Người ta thương nhớ có ngần thôi.)

Người ta nhắc đến tên nàng để,

Kể chuyện nàng, như kể chuyện vui.

 

Tôi với nàng đây không biết nhau,

Mà tôi thương tiếc bởi vì đâu?

“Mới hay tự cổ bao người đẹp,

Chẳng hẹn trần gian đến bạc đầu.”

Xem thêm: 
25 bài thơ tình bất hủ Việt Nam càng ngẫm càng thấy hay và sâu sắc
70 bài thơ tình yêu xa dạt dào cảm xúc nhớ mong
70 bài thơ tình yêu đơn phương đầy đau đớn, bất lực

3. Những bài thơ xuân Nguyễn Bính

Mùa xuân xuất hiện trong thơ ca với muôn hình vạn trạng. Nó biểu tượng cho sự trẻ trung, tươi mới và hy vọng. Thơ xuân Nguyễn Bính được miêu tả với những hình ảnh sắc nét như màu xanh của cỏ cây mới nảy mầm, đôi má đỏ hây hây của cô gái nhỏ, tiếng chim hót líu lo, ánh nắng rực rỡ, gió nhẹ thoang thoảng,... Tất cả đã làm nên một mùa xuân rất riêng.

3.1 Bài thơ: Thơ xuân

Đây cả mùa xuân đã đến rồi

Từng nhà mở cửa đón vui tươi.

Từng cô em bé so màu áo

Đôi má hồng lên, nhí nhảnh cười.

 

Và tựa hoa tươi, cánh nở dần,

Từng hàng thục nữ dậy thì xuân

Đường hương thao thức lòng quân tử

Vó ngựa quen rồi ngõ ái ân.

 

Từng gã thư sinh biếng chải đầu

Một mình mơ ước chuyện mai sau,

Lên kinh thi đỗ làm quan trạng,

Công chúa cài trâm thả tú cầu.

 

Có những ông già tóc bạc phơ

Rượu đào đôi chén, bút đề thơ

Những bà tóc bạc, hiền như Phật

Sắm sửa hành trang trẩy hội chùa.

 

Pháo nổ đâu đây, khói ngợp trời

Nhà nhà đoàn tụ dưới hoa tươi,

Lòng tôi như cánh hoa tiên ấy

Một áng thơ đề nét chẳng phai.

tho-nguyen-binh-voh-7

3.2 Bài thơ: Gái xuân

Em như cô gái hãy còn xuân,

Trong trắng thân chưa lấm bụi trần,

Xuân đến, hoa mơ, hoa mận nở.

Gái xuân giũ lụa trên sông Vân.

 

Lòng xuân lơ đãng, má xuân hồng.

Cô gái xuân mơ chuyện vợ chồng,

Đôi tám xuân đi trên mái tóc.

Đêm xuân cô ngủ có buồn không?

3.3 Bài thơ: Mưa xuân (I)

Em là con gái trong khung cửi

Dệt lụa quanh năm với mẹ già.

Lòng trẻ còn như cây lụa trắng,

Mẹ già chưa bán chợ làng xa.

 

Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay,

Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy.

Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ,

Mẹ bảo: Thôn Đoài hát tối nay.

 

Lòng thấy giăng tơ một mối tình.

Em ngừng thoi lại giữa tay xinh.

Hình như hai má em bừng đỏ,

Có lẽ là em nghĩ đến anh.

 

Bốn bên hàng xóm đã lên đèn,

Em ngửa bàn tay trước mái hiên.

Mưa thấm bàn tay từng chấm lạnh,

Thế nào anh ấy chẳng sang xem.

 

Em xin phép mẹ vội vàng đi,

Mẹ bảo: xem về kể mẹ nghe.

Mưa nhỏ nên em không ướt áo,

Thôn Đoài cách có một thôi đê.

 

Thôn Đoài vào đám hát thâu đêm,

Em mải tìm anh chả thiết xem.

Chắc hẳn đêm nay đường cửi lạnh,

Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em.

 

Chờ mãi anh sang anh chả sang,

Thế mà hôm nọ hát bên làng.

Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn,

Để cả mùa xuân cũng bẽ bàng.

 

Mình em lầm lụi trên đường về,

Có ngắn gì đâu một dải đê!

Áo mỏng che đầu, mưa nặng hạt,

Lạnh lùng em tủi với đêm khuya.

 

Em giận hờn anh cho đến sáng,

Hôm sau mẹ hỏi hát trò gì.

“- Thưa u họ hát...” Rồi em thấy

Nước mắt tràn ra, em ngoảnh đi.

 

Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay,

Hoa xoan đã nát dưới chân giày.

Hội chèo làng Đặng về ngang ngõ,

Mẹ bảo mùa xuân đã cạn ngày.

 

Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày!

Bao giờ em mới gặp anh đây?

Bao giờ Hội Đặng đi ngang ngõ,

Để mẹ em rằng hát tối nay?

3.4 Bài thơ: Mưa xuân (II)

Chiều ấm mùi hương thoảng gió đưa

Tà tà mưa bụi rắc thưa thưa

Cây cam cây quýt cành giao nối

Lá ngửa lòng tay hoa đón mưa.

 

Nào ai nhìn thấy rõ mưa xuân

Tơ nhện vừa giăng sợi trắng ngần

Bươm bướm cứ bay không ướt cánh

Người đi trẩy hội tóc phơi trần.

 

Đường mát da chân lúa mát mình

Đôi bờ cỏ dại nở hoa xanh

Gò cao đứng sững trâu kềnh bụng

Nghếch mõm nghe vang trống hội đình.

 

Núi lên gọn nét đá tươi màu

Xe lửa về Nam chạy chạy mau

Một toán cò bay là mặt ruộng

Thành hàng chữ nhất trắng phau phau.

 

Bãi lạch bờ dâu sẫm lá tơ

Làng bên ẩm ướt giọng chuông mờ

Chiều xuân lưu luyến không đành hết

Lơ lửng mù sương phảng phất mưa.

tho-nguyen-binh-voh-8

3.5 Bài thơ: Vườn xuân

Có những ngày đi rất vội vàng

Vườn tôi đầy cả gió xuân sang

Hai ba con bướm giang hồ đó

Đã trở về đây giũ phấn vàng.

 

Hoa có bao nhiêu nở hết rồi

Như đoàn cung nữ hé môi tươi

Và trong từng cánh, trong từng cánh

Những hạt mưa hiền lấm tấm rơi...

 

Xác pháo nơi nơi đã đỏ ngòm

Nơi nơi cành nảy búp xanh non

Mấy cô em bé đường kiêu ngạo

Môi mới lần đầu biết vị son.

 

Có một cô chim mới cưới chồng

Vì tình dan díu tự mùa đông

Sớm nay hai vợ chồng son ấy

Đã mớm cho nhau những tiếng lòng.

 

Xuân đến tình tôi nao nức quá

Như người giai tế tối tân hôn

Và say sưa quá cho nên đã

Đánh đổ trời xuân xuống suối hồn.

3.6 Bài thơ: Xuân nhớ

Rộn rã xuân về giữa thủ đô

Hồn đơn gác lẻ đón giao thừa

Nhà ai hàng xóm khoe màu cúc

Vườn cũ mai vàng biết nở chưa?

 

Câu thơ đứt giữa lòng trang giấy

Mắt rượu mờ trông mái tóc thề

Đất Bắc phải đâu là đất khách

Sao lòng mãi nặng mối tình quê?

 

Ngày muộn, mẹ già hong tóc trắng

Khác nào mây núi đỉnh Trường Sơn

Mẹ ơi giữ lấy vườn mai nhé

Cho trải vàng xuân đẹp bước con.

3.7 Bài thơ: Bài thơ: Xuân thương nhớ

Chàng ở nơi đâu thiếp ở nhà

Cây đào năm ngoái lại ra hoa

Chân trời rượu uống môi chàng ướt

Cửa sổ mưa bay chữ thiếp nhòa

Mãi nhớ trầm hương thưa ngọn khói

Càng thương vòng ngọc lỏng tay ngà

Tin chàng chẳng đến, tin xuân đến

Có mộng đêm nay cũng chỉ là…

3.8 Bài thơ: Xuân về

Đã thấy xuân về với gió đông,

Với trên màu má gái chưa chồng.

Bên hiên hàng xóm, cô hàng xóm

Ngước mắt nhìn giời, đôi mắt trong.

 

Từng đàn con trẻ chạy xun xoe,

Mưa tạnh giời quang, nắng mới hoe.

Lá nõn, ngành non ai tráng bạc?

Gió về từng trận, gió bay đi...

 

Thong thả, dân gian nghỉ việc đồng,

Lúa thì con gái mượt như nhung

Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng,

Ngào ngạt hương bay, bướm vẽ vòng.

 

Trên đường cát mịn, một đôi cô,

Yếm đỏ, khăn thâm, trẩy hội chùa.

Gậy trúc dắt bà già tóc bạc,

Tay lần tràng hạt miệng nam vô.

tho-nguyen-binh-voh-9

3.9 Bài thơ: Nhạc xuân

Hôm nay là xuân, mai còn xuân;

Xuân đã sang đò nhớ cố nhân.

Người ở bên kia sông cách trở,

Có về Chiêm Quốc như Huyền Trân?

 

Hôm nay là xuân, mai còn xuân;

Phơi phới mưa sa, nhớ cố nhân.

Phận gái ví theo lề ép uổng,

Đã về Chiêm Quốc như Huyền Trân?

 

Hôm nay là xuân, mai còn xuân,

Lăng lắc đường xa, nhớ cố nhân.

Nay đã vội quên tình nghĩa cũ,

Mà về Chiêm Quốc như Huyền Trân?

 

Hôm nay là xuân, mai còn xuân,

Một cánh đào rơi, nhớ cố nhân.

Cung nữ như hoa vườn Thượng uyển.

Ai về Chiêm Quốc với Huyền Trân?

 

Hôm nay là xuân, mai còn xuân,

Pháo đỏ đầy thềm, nhớ cố nhân.

Cung nữ môi tô rằng rặc điện,

Ai về Chiêm Quốc hộ Huyền Trân?

 

Hôm nay là xuân, mai còn xuân,

Rượu uống say rồi, nhớ cố nhân.

Đã có yêu nhau là đến thế,

Đừng về Chiêm Quốc nhé, Huyền Trân?

 

Đừng về Chiêm Quốc nhé, Huyền Trân.

Ta viết thơ này gửi cố nhân.

Năm mới tháng giêng mồng một tết,

Còn nguyên vẹn cả một mùa xuân.

 

- Huyền Trân ơi!

Mùa xuân, mùa xuân, mùa xuân rồi.

Giờ đây chín vạn bông trời nở,

Riêng có tình ta khép lại thôi!

3.10 Bài thơ: Mùa xuân xanh

Mùa xuân là cả một mùa xanh

Giời ở trên cao, lá ở cành

Lúa ở đồng tôi và lúa ở

Đồng nàng và lúa ở đồng anh.

 

Cỏ nằm trên mộ đợi thanh minh

Tôi đợi người yêu đến tự tình

Khỏi lũy tre làng tôi nhận thấy

Bắt đầu là cái thắt lưng xanh.

Xem thêm:
74 bài thơ về mùa Xuân rộn ràng, giàu cảm xúc
60 bài thơ về Tết đong đầy cảm xúc cho năm mới

4. Thơ Nguyễn Bính về quê hương

Những bài thơ hay của Nguyễn Bính về quê hương lúc nào cũng nhẹ nhàng, trong sáng, hồn nhiên và giản dị. Qua những vần thơ “chân quê”, ông đã chinh phục được trái tim của độc giả khiến họ phải xiêu lòng về sự mộc mạc và chân phương đó.

4.1 Bài thơ: Anh về quê cũ

Anh về quê cũ: thôn Vân

Sau khi đã biết phong trần ra sao.

Từ nay lại tắm ao đào

Rượu dâu nhà cất, thuốc lào nhà phơi.

 

Giang hồ sót lại mình tôi

Quê người đắng khói, quê người cay men.

Nam Kỳ rồi lại Cao Miên

Tắm trong một cái biển tiền người ta...

 

Biển tiền, ôi biển bao la

Mình không bẩn được vẫn là tay không...

Thôn Vân có biếc, có hồng

Hồng trong nắng sớm, biếc trong vườn chiều.

 

Đê cao có đất thả diều

Trời cao lắm lắm có nhiều chim bay.

Quả lành nặng trĩu từng cây

Sen đầy ao cá, cá đầy ao sen.

 

Hiu hiu gió quạt, trăng đèn

Với dăm trẻ nhỏ thả thuyền ta chơi.

Ăn gỏi cá, đánh cờ người

Thần tiên riêng một góc trời thôn Vân.

 

Ơi thôn Vân, hỡi thôn Vân!

Phương nào kết dải mây Tần cho ta

Từ nay, khi nhớ quê nhà

Thấy mây Tần biết đó là thôn Vân.

 

Ơi thôn Vân, hỡi thôn Vân!

Anh em ly tán, lầu dần thành ra,

Không còn ai ở lại nhà,

Hỏi còn ai nữa? Để hoa đầy vườn,

Trăng đầy ngõ, gió đầy thôn,

Anh về quê cũ có buồn không anh?

tho-nguyen-binh-voh-10

4.2 Bài thơ: Bài thơ quê hương

Trải nghìn dặm trời mây bạn tới.

Thăm quê tôi, tôi rất đỗi vui mừng!

Bạn nán lại cùng tôi thêm buổi nữa.

Để tôi xin kể nốt chuyện quê hương.

 

Quê hương tôi có cây bầu cây nhị

Tiếng “đàn kêu tích tịch tình tang...”

Có cô Tấm náu mình trong quả thị,

Có người em may túi đúng ba gang.

 

Quê hương tôi có ca dao tục ngữ,

Ông trăng tròn thường xuống mọi nhà chơi.

Một đĩa muối cũng mặn tình chồng vợ,

Một dây trầu cũng nhắc chuyện lứa đôi.

 

Con chim nhỏ cũng đau hồn nước mất

“Cuốc cuốc” kêu rỏ máu những đêm vàng

Chân ngựa đá cũng dính bùn trận mạc.

Theo người đi cứu nước chống xâm lăng.

 

Quê hương tôi có bà Trưng, bà Triệu

Cưỡi đầu voi, dấy nghĩa, trả thù chung.

Ông Lê Lợi đã trường kỳ kháng chiến,

Hưng Đạo vương đã mở hội Diên Hồng.

 

Quê hương tôi có múa xoè, hát đúm,

Có hội xuân liên tiếp những đêm chèo.

Có Nguyễn Trãi, có “Bình Ngô đại cáo”.

Có Nguyễn Du và có một “Truyện Kiều”.

 

Quê hương tôi có Trường Sơn một dải,

Có Hồng Hà lại có Cửu Long Giang

Có Hà Nội có hồ Tây, hồ Kiếm.

Chợ Đồng Xuân bày đủ mặt hàng.

 

Quê hương tôi có sầu riêng, măng cụt

Lòng bưởi đào, lòng gấc đỏ như son.

Có gạo tám xoan thổi nồi đồng điếu,

Cam xã Đoài ai bóc cũng thơm ngon.

 

Cánh đồng nào cũng chôn vàng giấu bạc,

Bờ biển nào cũng chói ngọc ngời châu.

Có thanh quế ngửi qua là khỏi bệnh,

Có cây lim đóng cả một thân tàu.

 

Quê hương tôi có những người con gái

“Một ngày hai bữa cơm đèn...”

Cách sông cái cũng bắc cầu dải yếm,

Cho chàng sang đính ước chuyện nhân duyên.

 

Trong bụng mẹ đã từng mê tiếng hát;

Nên quê tôi ai cũng biết làm thơ.

Những trẻ nhỏ nằm nôi hay đặt võng,

Sớm hay chiều, đều mượn cánh cò đưa.

 

Khi có giặc những tre làng khắp nước,

Đều xả thân làm ngọn mác, mũi chông,

Những trai gái thôn Đông, xóm Bắc

Thoắt vươn vai thành những anh hùng...

 

Quê tôi đó - bạn ơi! Là thế đó.

Mà nghìn năm rặt những tiếng kêu thương

Sung sướng làm sao! Bỗng một ngày: có Đảng

Bác Hồ, làm sống lại quê hương.

 

Đánh Nhật, đuổi Tây cứu dân, dựng nước

Hai mươi năm kể biết mấy công trình!

Và từ đây, núi sông và cuộc sống.

Và quê hương mới thực sự của mình.

 

Cuộc đời mới con người cũng mới,

Khắp bốn phương lộng lẫy ánh sao cờ,

“Đoàn quân Việt Nam đi... chung lòng cứu quốc...”

Đầu ngẩng cao từ cách mạng mùa thu.

 

Những xiềng xích nghìn năm đều bẻ gãy.

Những bài ca điệu múa lại vui tươi.

Những trận khóc đêm dài không có nữa.

Thành thị nông thôn rộn rã tiếng cười.

 

Trong luỹ tre xanh vui mùa hợp tác,

Mái ngói nhô lên như những nụ hoa hồng.

Chung ruộng, chung trâu, chung lòng, chung sức

Chung con đường gặt lấy ấm no chung.

 

Trong xưởng máy tưng bừng như đám hội.

Những chủ nhân là chính những công nhân.

Tiếng máy reo chen tiếng cười tiếng hát,

Chẳng còn đâu tiếng chủ thét, cai gầm!

 

Những nhà thơ được tự do ca ngợi,

Quê hương. Tổ quốc, con người...

Và đời sống khỏi túng, nghèo, đói, khổ.

Khỏi bị ai khinh rẻ, dập vùi!

 

Đời trước thường mơ chuyện tiên, chuyện Phật,

Truyện thiên đường trong những cõi hư vô...

Đời nay dựng thiên đường trên mặt đất,

Dựng mùa xuân trong tất cả bốn mùa.

 

Khi con người được tự do giải phóng.

Đất rộng hơn mà trời cũng xanh hơn.

Quả trên cành cũng thêm ngon, thêm ngọt,

Hoa trong vườn cũng thêm sắc, thêm hương.

 

Và ý nghĩa những ca dao, tục ngữ

Ngày càng thêm thắm thiết, ngọt ngào.

Và “Truyện Kiều” mới có chân giá trị,

Và Nguyễn Du mới thành đại thi hào.

 

Thửa ruộng cũ cấy thêm mùa lúa mới,

Khung trời quê mọc những nóc lò cao.

Dây “cao thế” đã chăng dài khắp nẻo,

(Xóm làng tôi điện sẽ át trăng sao).

 

Những gỗ tốt đã dựng câu lạc bộ,

Gạo tám xoan thơm bếp lửa nhân dân.

Những cô Tấm tự tay xây hạnh phúc

Chẳng phải gian nan hoá kiếp mấy lần.

 

Và lớp lớp những anh hùng xuất hiện.

Sức thanh niên: sức Phù Đổng là đây!

Đẩy biển lùi ra, ngăn sông đứng lại,

Khẩu súng trường cũng hạ nổi máy bay.

 

Hội Diên Hồng thôn xã nào cũng mở,

Chuyện “kháng chiến trường kỳ” ai cũng nhớ nhập tâm.

Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh

Câu ấy giờ đây đã đúng cả trăm phần.

 

Đảng cùng dân đã viết thêm lịch sử,

Lửa Điện Biên sáng dậy cả trăm năm.

Lửa Ấp Bắc, Chu Lai cũng bừng rực rỡ,

Lửa chiến công đang chói lọi miền Nam.

 

Khi có Đảng, có Bác Hồ lãnh đạo;

Có truyền thống cha ông để lại tự bao đời.

Thì đánh Mỹ nhất định là phải thắng

Chuyện ấy, quê tôi, thành chuyện dĩ nhiên rồi.

 

Câu chuyện quê tôi, sơ sài mấy nét.

Bạn trở về xin kể mọi người hay.

Riêng phần tôi có thơ này tặng bạn,

Tặng quê mình, nhân dịp tết năm nay.

4.3 Bài thơ: Quê tôi

Quê tôi có gió bốn mùa

Có giăng giữa tháng, có chùa quanh năm.

Chuông hôm, gió sớm, giăng rằm:

Chỉ thanh đạm thế, âm thầm thế thôi.

Tôi về đây, đã lâu rồi,

Nằm trong cô tịch nhớ người phồn hoa

Tóc tơ, mình liễu da ngà,

Một người càng nhớ, càng xa một người

Ngày trông mây trắng bay hoài,

Đêm mơ áo trắng bay dài năm canh

Lòng vàng lạc cánh chim xanh,

Lạc từ cái ý chung tình lạc đi.

Chẳng điên chẳng dại là gì.

Bỗng dưng mà biệt mà ly mọi người.

Chưa xa đã nhớ nhau rồi.

Nữa là hơn một tháng giời xa nhau.

 

Người đi nghỉ mát những đâu,

Đồ Sơn, Tam Đảo, nhà lầu xe hơi:

Ở đây, tôi chỉ đợi giời,

Mưa vàng một trận là tôi lên đường.

Sông ngang, núi trái bất thường,

Buồng the chẳng xót dậm trường thì thôi.

Mai ngày tôi bỏ quê tôi,

Bỏ giăng, bỏ gió, chao ôi! Bỏ chùa.

Đem thân đi với giang hồ,

Sân ga phẳng lặng, bến đò lênh đênh.

Quê hương chẳng nhớ cũng đành,

Cũng xin dâng cả chân tình cho ai.

 

Năm năm mây trắng bay hoài,

Hồn tôi áo trắng tang dài đêm đêm.

tho-nguyen-binh-voh-11

4.4 Bài thơ: Trở về quê cũ

Đi đã mười năm mới trở về

Tâm tình tràn ngập bước đường quê

Nghe sao nao nức như hồi trẻ

Níu áo theo cha buổi hội hè!

 

Dãy núi Trang Nghiêm đứng chống trời

Mười năm núi vẫn đợi chờ tôi

Sườn cao rêu phủ xanh đồn giặc

Tôi đã về đây: núi mỉm cười!

 

Ruộng vỡ đường cày, ngõ trải rơm

Phải đây Văn Miếu lối vào thôn?

Đi lâu quên cả màu hoa đại

Quên cả mùi hương gạo tám thơm!

 

Ngõ xuống bờ ao chơi ú tim

Nhà em hàng xóm biết đâu tìm?

Biết đâu vườn táo cành sai quả

Giếng đá trăng vàng đâu bóng em?

 

Một cơn khói lửa mấy tơi bời

Cảnh cũ làng xưa khác cả rồi

Ngước mắt trông lên trời cũng lạ

Nhà ai đây chứ phải nhà tôi!

 

Hỏi tên nhận mặt nhớ ra rồi

Mừng tủi bâng khuâng khóc lẫn cười

Trẻ xóm mười năm giờ lớn bổng

Mười năm mất mát biết bao người...

 

Mẹ cha khuất núi mấy thu tròn

Vườn táo cô mình đã bốn con

Nhớ thuở hội xuân chèo gióng trống

Xin mình giấy đỏ đánh môi son.

 

Nháo nhác đầu hồi chim sẻ kêu

Mưa thưa trắng lạnh nửa ao bèo

Sửa sai câu chuyện với trầu mặn...

Giọng kể cô tôi nặng bóng chiều!

 

Đất nước qua bao trận mất còn

Vàng son vẫn vẹn giá vàng son

Cô mừng trẻ lại năm mười tuổi,

Chẳng uổng công mình, xương máu con.

 

Xuân này vui tết lại vui quê

Lại chuyện làm ăn, chuyện hội hè,

Xanh biếc đầu xuân nương mạ sớm

Dậu tầm xuân nở, bướm vàng hoe.

 

Vào đám làng tôi mở trống chèo

Bay cờ, lộng gió, đỏ đuôi nheo

Lớp màn Thị Kính nuôi con mọn

Tôi biết người xem lệ chảy nhiều...

 

Hôm ấy tôi đi nắng ửng vàng

Bời bời ngõ cũ tím hoa xoan:

Xóm giềng tiễn biệt, cô đưa cháu

Đến mãi đầu thôn cạnh giếng làng.

 

Dãy núi Trang Nghiêm nhích lại gần

Trời cao vời vợi một màu xuân

Ta đi, chào núi, ta đi nhé!

Phơi phới tình quê buổi xuất quân…

4.5 Bài thơ: Xóm làng xanh

Bóng tre trùm bóng chuối,

Hương mít trộn hương cau.

Đặt gánh, nón thay quạt,

Ngực căng tròn áo nâu.

 

Bờ ruộng mòn mới xoá,

Trâu hợp tác đương cày.

Nước nông giang cuồn cuộn,

Theo nắng chảy về đây.

 

Gái thôn Đông, thôn Bắc,

Cấy “thửa ruộng miền Nam”.

Mạ cắm theo lời hát,

Chữ nhất thẳng từng hàng.

 

Giọng kẻng làm rộn rã,

Hồi trống học giòn tan.

Chuỗi cười tươi xướng mạ,

Bài giảng ấm trường làng.

 

Con đê dài lực lưỡng,

Sừng sững bức trường thành.

Sườn cao um biếc cỏ,

Ôm chặt xóm làng xanh.

 

Anh tân binh hết phép

Vui bước trên đường đồng.

Lùm cây xa, sẫm bóng,

Mái nhà ga đỏ hồng.

tho-nguyen-binh-voh-12

4.6 Bài thơ: Làng tôi

Làng tôi cũng có sông cùng núi,

Núi nhỏ, con sông chảy lặng lờ.

Lụt năm Tỵ, dân xiêu đi quá nửa,

Làng đã nghèo, càng nghèo xác nghèo xơ.

 

Nhà cửa dỡ bán củi ăn từng bữa,

Rau má bờ đê đẽo nhẵn lì.

Ba sào ruộng đồi cơm thiu một nắm,

Ăn hết vèo, mai biết sống bằng chi.

 

Nền nhà trống, ếch kêu chân lỗ cột,

Vườn hoang tàn, bạc phếch ánh trăng soi.

Người lũ lượt kéo nhau đi hành khất,

Cha dìu con... gục xuống, mỏn hơi rồi!

 

Anh em nhà lý trưởng Cời

Thừa lúc làng xiêu dân đói,

Ruộng đất phình ra, văn tự nứt hòm gian,

Dinh cơ lớn mọc thêm nhiều mái ngói.

 

Tôi mười một mười hai còn đóng khố,

Phải ẵm em cho mẹ, mẹ làm thuê.

Chiều hôm, bụng đói, em thì quấy,

Ngóng mẹ đường thôn kiếm gạo về.

 

Trời nhập nhoạng, bếp um lửa khói,

Đèn khô phao, nền đất dọn ăn thầm.

Nhai nhếu nháo, sờ mồm em, mẹ mớm,

Lưng vực xong, mẹ giũ chiếu đi nằm.

 

Có thím Hợi mù loà cạnh vách

(Trận lụt làm chết sạch cả chồng con)

Cứ tối tối thím kể Bần nữ thán

Tỉ tê giọng oán câu hờn...

 

Thím ngày tháng hát xẩm rong độ nhật

Chỉ lo phiền chết chẳng áo quan chôn

Bến đò vắng, phiên chợ làng cũng vắng

Vắng tiếng tiền chinh gieo rạn đáy thau mòn...

 

Giọng thím hát mỏi mòn, ẩm ướt

Trộn đầy nước mắt, mưa thu

Nghe mẹ thở dài, biết mẹ còn trằn trọc

Chắc mẹ thương thân, lại nhớ sự tình xưa

 

Mẹ tôi

Con gái làng Mai

Ai cũng phải khen rằng đẹp

Giọng hát hay nghe cứ rót vào tai

Tài cấy gặt đố người nào đuổi kịp

 

Mười tám tuổi gả về xóm Núi

Phá đất sườn non, vợ cuốc chồng cày

Bốn bận sinh, còn lại một trai một gái

Lý trưởng bắt chồng đăng lính sang Tây

 

“Thùng thùng trống đánh ngũ liên

Bước chân xuống thuyền...”

Vợ chồng đôi ngả

Con sông chảy mãi về đâu?

Bóng núi đè thâm mái rạ...

 

Một hôm có giấy quan về

(Ngỡ thế nào kia

Ngờ đâu ra thế!)

Lý Cời qua ngõ tạt vào

Rượu vẫn còn say bí tỉ

Tờ giấy mở ra

Trắng lốp một màu tang chế

“Này chị ấy ơi

Giấy trên vừa mới chạy về

Chồng chị chết rồi, bên nước mẹ

Chính phủ Lang Sa

Đền công chồng chị

Đây tấm bằng suất đội kèm theo

Chữ ký quan Tây

Triện đồng đỏ chóe

Chị giữ lấy mà trao

Một bước nên bà

Sướng nhé!”

Hắn vê ria mép cười tình

Nhay nháy mắt lươn ti hí

“Này! Lo lợn gạo mà khao

Bà đội nhà tôi ơi! Lệ làng phải thế

Có cần tiêu, tôi ứng tiền cho

Muốn trả, muốn không, tuỳ bụng chị.

Cứ ừ một tiếng là xong

Bà cả nó vốn hiền lành, tử tế...

Người thế kia mà lận đận chồng con

Nghĩ thương đáo để!”

Hắn về rồi, hơi rượu vẫn còn hăng

Trời đất tối rầm, đầu gối run lên muốn quỵ

Nước mắt dài hơn người

Lòng rối như canh hẹ

Con thơ níu áo hỏi dồn:

“Ông lý cho gì hở mẹ?”

 

Thế là

Áo trái đường khâu

Chèn thêm chốt cửa

Bỏ ngoài tai câu ý câu tình

Sụp vành nón, hội hè chẳng ngó

 

Giọng hát véo von

Mẹ dành để ru con ngủ

“Ạ ời ơi

Cái ngủ mày ngủ cho lâu

Mẹ mày đi cấy đồng sâu chưa về...”

Ăn đói làm thuê

Cơm niêu nước lọ

Mẹ ở vậy nuôi con

Tháng năm vò võ...

 

Tôi có thằng bạn nhỏ

Bằng tuổi nhau, nghèo khổ cũng ngang nhau

Bố nó bỏ làng bán mình cho Sở mộ

Giữa bể Đông, bão lớn, chìm tàu...

 

Tên nó là Đinh, mặt mày rắn cấc

Có tài bắn súng cao su

Trăm phát chẳng sai một phát

Chạng ổi giơ cao, viên đạn đất bay vù...

 

Nó mấy năm ròng lẽo đẽo

Ở chăn trâu cho nhà lý trưởng Cời

No đòn vọt mà đói cơm đói cháo

Vết lằn roi không kịp lặn trên người.

 

Rỏ máu mắt ngủ bên ổ chó

Ngậm bồ hòn than thở cùng trâu

Vợ lý trưởng bắc ghế ngồi chửi rủa

Đào cha ông mồ mả đổ lên đầu.

 

Đinh thả trâu quanh sườn núi bờ sông

Bắn chim chóc giấu đem về cho mẹ

Rau má độn cơm, bà chẳng bữa nào no

Người phù thũng, da vàng như xát nghệ.

 

Bỗng một hôm Đinh chạy đến tìm tôi

Mặt tím lại, mắt đỏ hoe muốn khóc

Giơ lưng, lật áo cho xem

Máu chảy thành dòng

Lằn roi vọt quất ngang quất dọc:

 

“Mày ở nhà thôi, khổ quá, tao đi

Xó chợ, đầu đường, ra Đông, ra Bắc

Cũng cứ liệu thôi!

Ở với nó có ngày chết mất!”

Nói rồi nó bỏ đi luôn

Tôi đứng nhìn theo quệt ngang nước mắt.

 

Nhưng ngay chiều ấy

Đinh lại quay về

Nó đứng đầu hè

Khẽ máy tôi ra, thủ thỉ

“Mày ơi, nghĩ lại không đành

Đi thì yên một thân tao

Mẹ ốm, lấy ai nuôi mẹ?

Cái kiếp thằng tao

Sao mà khổ thế!

Tí nữa đây tao ló mặt về

Cầm chắc ăn đòn bội nhị”

Nó lắc đầu, ra vẻ muốn quên đi

Những trận đòn đau sắp tới:

“Thôi lại sáng mai

Bến đò nhé, cõng em theo, tớ đợi

Bờ sông lúc nãy tớ đi qua

Sáo sậu về vô khối

Ngày mai bắt sống một con chơi

Lột lưỡi dạy cho nó nói...”

 

Tết đến, xuân về

Phây phây mưa bụi

Xanh non lá lộc nhú cành khô

Tím nhạt hoa xoan rơi ngõ lội

Xuân vui nhà ngói nhà lim

Xuân chẳng vui gì nhà tre xóm Núi

Nhà lý trưởng Cời

Pháo đốt điếc tai từ sáng tinh mơ tới tối

Nhà tôi tết đến cũng như không

Ba nén hương đen

Thơm chẳng có thơm nhưng cũng khói.

 

Xong tết bên sông làng mở hội

Một hàng cờ cắm đỏ đuôi nheo

Mặt sông chẳng ngớt đò qua lại

Vách núi ầm vang tiếng trống chèo.

 

Ba gian đình cổ người đông nghịt

Trống cái, dùi găng, lý trưởng dẻo tay chầu

Tôi rủ Đinh chen vào góc cột

Chèo Thạch Sanh đang dọn lớp giáo đầu.

 

Hồi trống giãn trò vừa dứt

Cũng vừa gà gáy sang canh

Sương trắng mù sông, gió tháng giêng vẫn lạnh

Hai trẻ nhà nghèo manh áo vá phong phanh.

 

Đò trở ngang sông

Đinh ghé tai tôi nói nhỏ:

“Lúc nãy tao trông lão lý trưởng Cời

Sao giống hết Lý Thông, mày ạ!

Cũng ria mép đen thui,

Cũng mắt lươn trắng dã

Từ rày đừng gọi Lý Cời

Cứ gọi Lý Thông, nhớ nhá!”

 

Sau đêm chèo lòng tôi tơ tưởng mãi

Tôi thường bàn tán với Đinh

Thương họ Thạch hàn vi côi cút

Ôi, cảnh chàng ta sao giống cảnh tụi mình

Đêm rặt nằm mơ tiên cho phép lạ

Thấy gốc đa nào cũng ngỡ có Thạch Sanh...

 

Đinh vội cướp lời, kể lể

“Tao cũng thế, cũng nằm mơ thấy thế

Tao đương cắt cỏ bờ sông

Tiên hiện lên, dạy nhiều phép thần thông

Tao tức tốc chạy về nhà lý trưởng

Thằng Lý Cời – thằng Lý Thông luống cuống

Vội vàng nó hoá Trăn Tinh

Phun lửa đốt tao, lửa bốc tày đình

Tao không sợ, tao liền hoá phép

Chăng lưới thép, giơ búa thần lẫm liệt

Chém đứt đầu trăn máu chảy ròng ròng...”

 

Hai đứa nhìn nhau thích chí

Tưởng đâu đời sắp sướng rồi

Như họ Thạch hết hồi bĩ cực

Được gảy đàn thần, cưới vợ, lên ngôi...

 

Nhưng rồi, hai đứa chúng tôi

Sự thật ngày thêm cơ cực quá

Chẳng một lần được tiên cho phép lạ

Những giấc mơ theo ngày tháng tàn phai

Xóm Núi, làng Mai

Nghèo đói càng thêm nghèo đói

Thím Hợi hát rong không sống nổi

Chậu thau mòn bán rẻ tự hồi xưa

Bị gậy xin ăn, cơm cặn canh thừa

Đêm mưa tối vẫn kể Bần nữ thán

Mẹ tôi da dẻ ngày đen sậm

Kỳ giở giời lưng nhức chân tê

Những hôm mưa gió dầm dề

Ba mẹ con chỉ ngày lưng bát cháo

Nghèo rớt mồng tơi

Không mua nổi chỉ kim vá áo

Những chỗ rách to đành buộc túm bằng rơm

Thằng bạn Đinh mấy bận ngỡ đi luôn

Mấy bận lại quay về chịu đánh

Lưng cháy nắng lại rơi lằn máu quánh

Súng cao su không bắn chết được chằn tinh

Xám ngắt ao tù

Ngày tháng quẩn quanh

Cùng đường nghẽn lối

Lý trưởng Cời cây thóc cao ngang núi

Xây nhà tây chót vót hai tầng

Cửa sổ há ra như mồm những con trăn

Muốn nuốt chửng cả làng Mai xóm Núi

Trong nhà nó cứ vui như mở hội

Tiệc tùng luôn, xóc đĩa, tổ tôm tràn

Dựng cổng chào, hương án, đón xe quan,

Bật rạp lớn, thui bò non, hạ thọ.

Tây với Nhật ra vào lố nhố,

Bắt phu, cướp thóc,

Nghênh ngang súng ngắn, gươm dài.

Khắp cả vùng ngậm đắng nuốt cay,

Trời nghiêng đất lệch.

 

Mẹ Đinh chết, gói lạt tre chiếu rách,

Xé giát giường làm bó đuốc, đưa đêm.

Trước lúc xuôi tay bà chỉ ước ao thèm

Một bát canh cần cá quả.

Tiền chẳng một chinh, Đinh đã hết đường xoay xỏa.

Nhà lý Cời cá béo sống đầy chum,

Đinh đánh liều lấy trộm một con,

Về nấu bát canh cho mẹ.

Trời chiều bóng xế...

Đinh múc canh, bưng đến cạnh giường,

Nhưng mẹ Đinh tay đã bắt chuồn chuồn,

Không ăn được nữa.

Đinh trợn mắt, rụng rời nghẹn thở,

Bát canh rơi vỡ tan tành...

 

Tối hôm sau tôi đến tìm Đinh,

Cuối xóm đường đi lút cỏ.

Rờn rợn mùi hương, lều tối lóe lên ba chấm đỏ.

Đinh đương quỳ khấn nỉ non:

“- Mẹ có khôn thiêng phù hộ cho con...”

Biết tôi đến, Đinh đứng lên, bí mật:

“- Tao đi thật, chuyến này, đi thật!

Tao định rủ mày, hai đứa với nhau...”

Tôi hỏi: “Đi đâu?”

Nó rằng: “Không phải hỏi,

Đâu cũng được, Sơn Tây, Hà Nội,

Thân lập lấy thân

Hai bàn tay làm lấy mà ăn,

Không để đói, không để ai đánh chửi.”

 

Dằng dặc trời sao chấp chới,

Gió may sương muối rét tê người.

Hai đứa vòng qua ngõ lý Cời,

Dừng lại ngó tòa nhà tây cao ngất.

Cửa kính xanh lè, tường vôi trắng toát,

Đừng lù lù như con Mãng Xà Vương,

Tu luyện lâu năm, chắn lối ngăn đường.

Đinh chửi một câu, rút súng cao su, lắp đạn,

Giơ chạng ổi kéo căng dây, nó bắn,

Nghe một tiếng choang.

Một khung kính cửa vỡ tan.

Đàn chó sủa ầm, hốt hoảng,

Hai đứa vội vàng ba chân bốn cẳng...

 

Trời rét.

Đêm khuya,

Đò vắng,

Cởi áo quần hai đứa lội qua sông.

Tưởng mình như hai gã tiểu đồng,

Lặn lội tìm Tiên xin phép lạ.

Nghĩ tới mẹ cùng em, bỗng dưng tôi nhớ quá!

Qua sông. Trời sắp sáng rồi.

Ngoảnh trông xóm Núi, bồi hồi,

Chắc mẹ đêm qua lại khóc.

Xóm Núi sương giăng,

Mặt trời chưa mọc.

Đó đây nghe đã rộn canh gà.

 

Bỏ làng đi năm bốn mươi ba.

Hai đứa mới mười sáu tuổi...

Xem thêm:
Tổng hợp chùm thơ lục bát về quê hương giúp bạn tìm về ký ức miền quê
Tuyển chọn những bài thơ về quê hương đưa bạn về với miền ký ức tuổi thơ
8 bài thơ 4 chữ về quê hương - Một làng quê Việt Nam yên bình, mộc mạc

5. Thơ lục bát Nguyễn Bính

Nguyễn Bính được mệnh danh là nhà thơ làng quê của Việt Nam. Bởi sáng tác của ông luôn bình dị, chân thành, trong trẻo như ca dao trữ tình. Vì vậy, phần lớn các bài thơ lục bát Nguyễn Bính dễ đi vào lòng người, để lại ấn tượng khó phai với những giai điệu ngọt ngào, sâu lắng.

5.1 Bài thơ: Đóa hoa hồng

Thưa đây, một đoá hoa hồng

Và đây một án hương lòng hoang vu

Đầu bù trở lại kinh đô

Tơ vương chín mối sầu cho một lòng

Tình tôi như đóa hoa hồng

Ở mương oan trái, trong lòng tịch liêu

Kinh đô cát bụi bay nhiều

Tìm đâu thấy một người yêu hoa hồng?

tho-nguyen-binh-voh-13

5.2 Bài thơ: Rượu xuân

Cao tay nâng chén rượu hồng,

Mừng em, em sắp lấy chồng xuân nay.

Uống... vâng... em uống cho say,

Để trong mơ, thấy những ngày xuân qua,

Thấy tình duyên của đôi ta,

Đến đây là... đến đây là... là thôi!

Em đi dệt mộng cùng người,

Lẻ loi xuân một góc trời riêng anh…

5.3 Bài thơ: Vài nét rừng: Xanh

Xanh cây, xanh cỏ, xanh đồi

Xanh rừng, xanh núi, da trời cũng xanh.

Áo chàm cô Mán thanh thanh

Mắt xanh biêng biếc một mình tương tư.

5.4 Bài thơ: Tay người

Giời làm mấy tháng không mưa,

Mạ chiêm cháy táp, cỏ bờ vàng hoe.

Lá cành xơ xác vườn quê,

Giếng trơ mạch đá, ao chìa bùn đen.

 

Đất cằn vắng cả bóng chim,

Quầng trăng tê tái trùm lên cánh đồng.

Tay người vạch đất thành sông,

Mồ hôi đã chảy từng dòng về đây!

 

Ruộng xanh cò trắng lại bay,

Nước trong, uống ngọt từng cây lúa mềm.

Lòng ao nhấp nháy sao đêm,

Tiếng cười ai đó đi xem hội làng.

 

Bụi bờ ếch nhái kêu vang,

Giếng thơi ngập ánh trăng vàng đêm qua.

Trời xuân lại ấm lời ca,

Vườn quê lại đỏ màu hoa hải đường.

5.5 Bài thơ: Đêm sao sáng

Đêm hiện dần lên những chấm sao,

Lòng trời đương thấp bỗng nhiên cao.

Sông Ngân đã tỏ đôi bờ lạnh,

Ai biết cầu Ô ở chỗ nào?

 

Tìm mũ Thần Nông chẳng thấy đâu,

Thấy con Vịt lội giữa dòng sâu.

Sao Hôm như mắt em ngày ấy,

Rớm lệ nhìn tôi bước xuống tàu.

 

Chòm sao Bắc Đẩu sáng tinh khôi,

Lộng lẫy uy nghi một góc trời.

Em ở bên kia bờ vĩ tuyến,

Nhìn sao thao thức mấy năm rồi...

 

Sao đặc trời cao sáng suốt đêm,

Sao đêm chung sáng chẳng chia miền.

Trời còn có bữa sao quên mọc,

Tôi chẳng đêm nào chẳng nhớ em.

tho-nguyen-binh-voh-14

5.6 Bài thơ: Chiếc nón

Ngày đi tập kết ra đây,

Mang theo chiếc nón tự tay em chằm,

Bay giờ đã trải ba năm,

Chiếc nón em chằm chưa ngả màu sơn.

Nắng mưa há dám đội thường,

Chút quà nghìn dặm quý hơn vàng mười.

Cầm giơ lên nắng mà coi,

Hàng dừa dưới bóng trăng soi đậm đà.

“Bắc Nam sum họp một nhà”,

Ẩn trong mỗi chữ bao la tình sâu!

Yêu nhau chằm nón cho nhau,

Lấy câu sum họp làm câu hẹn hò.

 

Vách treo chiếc nón bài thơ,

Tròn như trăng buổi tiễn đưa hôm nào.

5.7 Bài thơ: Tựu trường

Những nàng thiếu nữ sông Hương,

Da thơm là phấn, môi hường là son.

Tựu trường san sát chân thon,

Lao xao nón mới, màu son sáng ngời.

Gió thu cứ mãi trêu ngươi

Đôi chân áo mỏng tơi bời bay lên.

Dịu dàng đôi ngón tay tiên

Giữ hờ mép áo làm duyên qua đường.

5.8 Bài thơ: Đường rừng chiều

Lữ hành bắt gặp quán cơm,

Bầy ong bắt gặp mùi thơm hoa rừng.

Đèo cao cho suối ngập ngừng,

Nắng thoai thoải nắng, chiều lưng lửng chiều.

Giăng non như một cánh diều

Trẻ con phất dối thả diều lên mây.

Chim nào kêu mỏi ngàn cây

Ngẩn ngơ đôi chiếc ngựa gầy dong xe.

Đồi sim dan díu nương chè

Trắng phau khói núi, xanh lè áo ai…

5.9 Bài thơ: Đêm cuối cùng

Hội làng mở giữa mùa thu,

Giời cao, gió cả, giăng như ban ngày.

 

Hội làng còn một đêm nay,

Gặp em còn một lần này nữa thôi!

Phường chèo đóng Nhị độ mai,

Sao em lại đứng với người đi xem?

Mấy lần tôi muốn gọi em,

Lớp Mai Sinh tiễn Hạnh Nguyên sang Hồ.

 

Tình tôi mở giữa mùa thu,

Tình em lẳng lặng kín như buồng tằm.

5.10 Bài thơ: Bên sông

Có hai em bé học trò,

Xem con kiến gió đi đò lá tre.

Nứa xuôi từng một thôi bè,

Nắng sang bãi cát bên kia có chiều.

Thoáng như một lớp phù kiều,

Chim đàn nối cánh bay vèo ngang sông.

Thuyền buôn đã mấy ngày ròng,

Nằm suông, lái chửa ăn xong giá hàng.

tho-nguyen-binh-voh-15

5.11 Bài thơ: Nữ sinh

Những nàng kiều nữ sông Hương,

Da thơm là phấn, môi hường là son.

Tựu trường san sát chân thon,

Lao xao nón mới màu son sáng ngời.

Gió thu vàng lắm ai ơi!

Đôi thân áo rộng tơi bời bay lên.

Vội vàng những ngón tay tiên

Giữ hờ mái nón làm duyên qua đường.

5.12 Bài thơ: Gió mưa

Mấy tuần ròng rã gió mưa

Bên lầu đò lạnh gió lùa nước dâng

Ngược xuôi mưa gió đãi đằng

Nằm đây nhớ nửa vầng trăng chốn nào

Mưa rào rào, gió ào ào

Trùm chăn say khói thuốc lào đê mê

Học sinh mấy buổi đi về

Quần cao, nón thấp ê chề gió mưa.

Thơ Nguyễn Bính vẫn sống mãi trong dòng chảy văn học Việt Nam bởi lối viết gần gũi, dung dị và chân phương. Ông là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ phong trào Thơ mới (1932 - 1945), là nghệ sĩ tài năng của những áng thơ không bao giờ cũ.

Sưu tầm