Tại Sở giao dịch hàng hóa Tokyo(TOCOM), giá cao su ngày 7/8/2019, lúc 10h00, giờ Việt Nam, kỳ hạn tháng 1/2020 tăng 0,8 yen/kg lên mức 166,7 yen/kg, trong bối cảnh lo ngại nhu cầu toàn cầu chậm lại do chiến tranh thương mại Mỹ - Trung.
Giá cao su tại Tocom – Tokyo Commodity Exchange(auto update)
Trade Date: Aug 07, 2019 |
Prices in yen / kilogram |
Month |
Last Settlement Price |
Open |
High |
Low |
Current |
Change |
Volume |
|
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Aug 2019 |
191.0 |
191.0 |
195.0 |
188.1 |
193.6 |
+2.6 |
190 |
|
Sep 2019 |
180.5 |
181.4 |
185.4 |
180.5 |
185.3 |
+4.8 |
225 |
|
Oct 2019 |
174.5 |
175.0 |
177.6 |
174.7 |
177.4 |
+2.9 |
136 |
|
Nov 2019 |
173.0 |
173.0 |
176.4 |
172.2 |
176.0 |
+3.0 |
338 |
|
Dec 2019 |
168.4 |
169.3 |
171.3 |
167.7 |
170.7 |
+2.3 |
950 |
|
Jan 2020 |
165.9 |
167.0 |
168.1 |
164.2 |
166.7 |
+0.8 |
2,311 |
|
Total |
|
4,150 |
Giá cao su kỳ hạn trên sàn Thượng Hải kết thúc giao dịch đêm tăng 0,6% lên 11.470 CNY (1.633 USD)/tấn.
Tổng thống Mỹ Donald Trump giảm bớt lo ngại về cuộc chiến thương mại kéo dài với Trung Quốc, bất chấp cảnh báo từ Bắc Kinh cho rằng là nước thao túng tiền tệ sẽ gây hậu quả nghiêm trọng đối với trật tự tài chính toàn cầu.
Đồng USD ở mức khoảng 106,26 JPY so với khoảng 106,66 JPY trong ngày thứ ba (6/8/2019).
Chỉ số Nikkei trung bình của Nhật Bản giảm 0,18% trong ngày thứ tư (7/8/2019).
Giá cao su TSR20 kỳ hạn tháng 2/2020 trên sàn TOCOM tăng 1,4% lên 144 JPY/kg.
Giá cao su kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn SICOM giảm 0,4% xuống 130,1 US cent/kg.
Ảnh minh họa: internet
Giá cao su đóng cửa tại châu Á ngày 6/8/2019
Thị trường |
Chủng loại |
ĐVT |
Kỳ hạn |
Giá đóng cửa |
Thái Lan |
RSS3 |
USD/kg |
19- Sep |
1,48 |
Thái Lan |
STR20 |
USD/kg |
19- Sep |
1,33 |
Malaysia |
SMR20 |
USD/kg |
19- Sep |
1,31 |
Indonesia |
SIR20 |
USD/kg |
19- Sep |
1,40 |
Thái Lan |
USS3 |
THB/kg |
19- Sep |
39,73 |
Thái Lan |
Mủ 60%(drum) |
USD/tấn |
19- Sep |
1.140 |
Thái Lan |
Mủ 60% (bulk) |
USD/tấn |
19- Sep |
1.040 |
Singapore |
19- Sep |
160 |
||
RSS3 |
19-Oct |
149,6 |
||
19-Nov |
151,9 |
|||
19-Dec |
150,4 |
|||
US cent/kg |
19- Sep |
134,5 |
||
TSR20 |
19-Oct |
130,7 |
||
19-Nov |
131,5 |
|||
19-Dec |
132,2 |
Nguồn: VITIC/Reuters
Thị trường cao su nguyên liệu trong nước tăng
Thị trường cao su nguyên liệu trong nước biến động tăng nhẹ trong tháng qua cùng với xu hướng của thị trường thế giới. Tại thủ phủ cao su Bình Phước, giá mủ nước ngày 17/7 tăng lên 265 đồng/độ, so với 260 đồng/độ vào đầu tháng. Giá mủ tại Đồng Nai không thay đổi ở mức 12.000 đồng/kg.
Triển vọng thương mại song phương giữa Mỹ và Trung Quốc vẫn còn nhiều vấn đề cần giải quyết. Nếu căng thẳng gia tăng, kinh tế toàn cầu sẽ tăng trưởng chậm lại, làm giảm giá dầu đồng thời kéo giảm nhu cầu cao su.
Hiện tại, xuất khẩu cao su của Việt Nam chưa bị ảnh hưởng nhiều bởi sự leo thang của xung đột thương mại Mỹ – Trung, giá cao su nguyên liệu và xuất khẩu vẫn duy trì đà phục hồi do nguồn cung tại các nước sản xuất lớn bị hạn chế.
Xuất khẩu cao su tăng mạnh trong nửa đầu tháng 7/2019
Trong 15 ngày đầu tháng 7/2019, xuất khẩu cao su đạt 76,14 nghìn tấn, trị giá 106,98 triệu USD, tăng 16,1% về lượng và tăng 21,1% về trị giá so với 15 ngày đầu tháng 7/2018.
Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho biết, trong 10 ngày giữa tháng 7/2019, giá mủ cao su nguyên liệu trong nước giảm theo xu hướng giá thế giới. Ngày 22/7/2019, tại Đắk Lắk giá thu mua mủ nước tại vườn và tại nhà máy giảm 15 đ/độ TSC so với cuối tháng 6/2019, hiện giao dịch ở mức 255 đ/độ TSC và 260 đ/độ TSC.
Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, trong 15 ngày đầu tháng 7/2019, xuất khẩu cao su đạt 76,14 nghìn tấn, trị giá 106,98 triệu USD, tăng 14,3% về lượng và tăng 12,2% về trị giá so với 15 ngày cuối tháng 6/2019, tăng 16,1% về lượng và tăng 21,1% về trị giá so với 15 ngày đầu tháng 7/2018. Như vậy, tính từ đầu năm đến hết ngày 15/7/2019, lượng cao su xuất khẩu đạt 690,55 nghìn tấn, trị giá 948,86 triệu USD, tăng 9,6% về lượng và tăng 4,4% về trị giá so với cùng kỳ năm 2018.
Giá xuất khẩu cao su trung bình 15 ngày đầu tháng 7/2019 ở mức 1.405 USD/tấn, giảm 1,8% so với mức giá xuất khẩu trung bình 15 ngày trước đó, nhưng tăng 4,3% so với cùng kỳ năm 2018.